Thứ Bảy, 29 tháng 11, 2025

BÀI PHÁT BIỂU TỔNG KẾT LỚP GIÁO LÝ HÔN NHÂN CỦA MỘT LUẬT SƯ


Lời mở đầu

Kính thưa Quý Cha, quý Thấy Cô, Thưa các anh chị em, 

Tôi đứng đây với tâm trạng vừa vinh dự vừa bối rối. Vình dự vì được lựa chọn chia sẽ những suy tư cả nhân trong buổi tổng kết ý nghĩa này. Bối rối vì tôi nghĩ mình không phải là người thích hợp nhất - tôi không phải tín hữu, không được rửa tội. Nghề nghiệp của tôi là luật sư - một nghề quen với lý lẽ, với tranh luận, với những điều khoản rõ ràng đen trắng. Nhưng có lẽ chính vì thế, hành trình của tôi qua khóa học này lại có những góc nhìn khác biệt mà tôi muốn chia sẻ.

Khi bước vào buổi học đầu tiên, tôi cảm thấy mình như một người lạ. Xung quanh tôi là những cặp đôi nắm tay nhau, những khuôn mặt rạng rỡ chuẩn bị cho hôn lễ sắp tới. Còn tôi - đã hơn 30 tuổi, độc thân, không rõ lý do tại sao mình ngồi đây.

Trong nghề nghiệp, tôi quen với việc phân tích, đánh giá, tìm kiếm bằng chứng, nhưng về đức tin, về tình yêu, về hôn nhân - tôi không có bằng chứng gì cả. Tôi chỉ có một khao khát mơ hồ, một câu hỏi chưa có lời giải: Hôn nhân có thể là gì hơn một hợp đồng pháp lý không?

Người ta thường tìm đến tôi khi muốn ly hôn, hay tranh chấp . Tôi thấy hôn nhân được phân chia theo tài sản, quyền nuôi con, nghĩa vụ cấp dưỡng. Tôi thấy tình yêu được định giá bằng tiền, bằng bất động sản, bằng những lập luận sắc bén.

Nhưng qua khóa học này, tôi được nghe về một chiều kích hoàn toàn khác của hôn nhân - không phải là hợp đồng đôi bên cùng có lợi, mà là giao ước trước mặt Thiên Chúa. Không phải là thỏa thuận có thể hủy bỏ khi một bên vì phạm, mà là định ước bất khả phân ly giống như tình yêu của Chúa Kitô dành cho Hội Thánh.

Cả đời tôi được dạy để đi tim kiếm lý lẽ và phân tích. Nhưng khoá học này dạy tôi rằng có những điều không thể giải thích bằng lý trí, mà chỉ có thể được cảm bằng trái tim.

Tại sao phải trung thành với một người suốt đời, kể cả khi thịnh vượng lần nghèo khó, khi khỏe mạnh lần đau yếu? Trong tôi đầy hoài nghĩ. Lý trí bảo đó là phi thực tế, là ràng buộc bất công. Nhưng trái tim hiểu rằng đó chính là tình yêu đích thực - tình yêu không phải là cảm xúc nhất thời, mà là quyết định mỗi ngày.

Một điều khiến tôi tâm đắc sâu sắc trong các buổi học là: Giáo lý không dạy chúng ta rằng hôn nhân sẽ hoàn hảo, mà dạy rằng hôn nhân là con đường thánh hóa những con người bất toàn.

Tôi không tin vào sự trung thành tuyệt đổi không bao giờ dao động. Tôi tin vào sự trung thành của những người biết mình yếu đuối, biết mình có thể ngã, nhưng vẫn chọn đứng lên và quay về với nhau. Biết phạm lỗi và nhận lỗi, cầu xin sự tha thứ và tiếp tục sống - đó mới là sự trung thành thật sự.

Trong luật pháp, một hợp đồng bị vi phạm sẽ bị hủy bỏ. Nhưng trong hôn nhân theo đức tin Công giáo, một giao ước bị tổn thương có thể được chữa lành bằng ân sủng và tha thứ.

Tôi không theo Chúa - ít nhất không theo cách truyền thống. Nhưng mỗi lần đi ngang Nhà thờ, khi tiếng chuông đổ và bầy bồ câu bay lên, tôi cảm thấy mình bỗng dịu lại, thật thà, trong lòng tràn ngập sự bình an.

Có lẽ đó là cách Chúa nói chuyện với những kẻ như tôi - không qua giáo lý phức tạp, mà qua những khoảnh khắc giản dị. Và có lẽ hôn nhân cũng vậy - không phải là hiểu hết nhau bằng lý trí, mà là cảm nhận được sự binh an khi ở bên nhau , dù không giải thích được tại sao.

Lời cảm ơn

Tôi muốn cảm ơn Quý Cha và quý Thầy Cô đã không từ chối một người như tôi - người ngoại đạo, người hoài nghi, người bị chia rẽ giữa đức tin và lý lẽ. Mọi người đã cho tôi thấy rằng Giáo Hội không chỉ dành cho những người hoàn hảo, mà còn dành cho cả những kẻ đang tim kiếm.

Tôi cảm ơn các anh chị em trong lớp. Nhìn thấy tình yêu trong ánh mắt các anh chị dành cho nhau, nghe các anh chị chia sẻ về hành trình sắp tới, tôi thấy hy vọng - hy vọng rằng giữa thế giới đầy rấy sự mâu thuẫn và bất trắc, vẫn còn những người dũng cảm tin vào sự đơn nhất và bất khả phân ly của đời sống hôn nhân.

Tôi không biết tương lai của mình sẽ ra sao. Có thể tôi sẽ kết hôn, có thể không. Có thế tôi sẽ được làm bí tích hôn phối, có thể không. Nhưng dù thế nào, khóa học này đã cho tôi một điều quý giá: Một cái nhìn về tình yêu cao hơn những gì lý lẽ thông thường có thể định nghĩa. Và tôi tin rằng Chúa sẽ ban phúc cho mọi tình yêu chân thành - dù nó diễn ra trong hay ngoài bí tích, dù người yêu có tên trong số giáo họ hay không,

Xin chúc tất cả các anh chị em sắp bước vào hôn nhân một hành trình tràn đầy ân sủng. Và xin nguyện chúc cho những kẻ như tôi - những kẻ vẫn còn đang lạc lối, vẫn còn đang tìm kiếm - rằng một ngày nào đó, khi tiếng chuông nhà thờ lại đổ, chúng tôi sẽ không chỉ dừng lại lắng nghe, mà sẽ có đủ can đảm để bước vào.

Xin chân thành cảm ơn.

(Trích bài phát biểu của một học viện lớp GLHN khoá 2 – năm 2025 tại nhà thờ Chánh Toà SG)


x

Thứ Năm, 27 tháng 11, 2025

CHECKLIST MỖI LẦN ĐI XƯNG TỘI


[ ] 1. Xét mình nghiêm túc

  • Nhớ lại:

    • Tội đối với Chúa (bỏ lễ, lười cầu nguyện, xúc phạm sự thánh…)

    • Tội đối với người khác (nói xấu, bất công, giận ghét, không tha thứ…)

    • Tội đối với chính mình (nghiện ngập, sống buông thả, lười biếng…)

  • Ghi ra giấy nếu sợ quên.

[ ] 2. Ăn năn tội thật lòng

  • Nhìn tội mình trong ánh mắt yêu thương của Chúa, chứ không chỉ là “sợ phạt”.

  • Thầm nói với Chúa: “Con thật lòng xin lỗi, xin cho con chừa bỏ”.

[ ] 3. Quyết tâm chừa

  • Chọn ít nhất 1 tội cụ thể mình sẽ cố gắng dứt/bớt (VD: bớt chửi thề, bớt nói xấu…).

  • Quyết tâm tránh dịp tội (những hoàn cảnh dễ kéo mình sa ngã).

[ ] 4. Nghĩ đến việc “sửa sai”

  • Nếu:

    • Lấy của người khác → ghi nhớ phải trả lại/đền bù.

    • Làm tổn thương ai → sắp xếp xin lỗi/hàn gắn sau khi xưng tội.

    • Gây gương xấu → dự tính một việc tốt cụ thể để “gỡ gương xấu”.

[ ] 5. Xưng tội đơn sơ – thành thật

  • Dấu Thánh Giá, nói:

    • Lần xưng tội gần nhất khi nào.

    • Kể tội rõ nhưng gọn, bắt đầu từ tội nặng / thường phạm.

  • Không cần kể dài dòng chuyện đời, chỉ tập trung vào tội.

[ ] 6. Lắng nghe cha khuyên – nhận việc đền tội

  • Nghe cha nhắc nhở, hướng dẫn.

  • Nhận việc đền tội (đọc kinh, việc lành…) và ghi nhớ rõ:

[ ] 7. Làm ngay việc đền tội

  • Thực hiện sớm nhất có thể sau khi ra khỏi toà giải tội.

  • Làm với tâm tình: tạ ơn – đền bù – yêu Chúa hơn, đừng làm qua loa.

[ ] 8. Bắt tay vào “sửa sai”

  • Trả lại/đền bù nếu có liên quan đến của cải.

  • Xin lỗi, hoà giải nếu có người mình đã làm tổn thương.

  • Cố gắng sống tốt hơn trước mặt những người mình đã từng gây gương xấu.

[ ] 9. Chọn một việc hy sinh / bác ái để đền vạ tạm

  • Ví dụ:

    • Nhịn một cuộc vui / mua sắm không cần thiết.

    • Dành thời gian thăm người bệnh, giúp đỡ người khó khăn.

    • Thêm 1 chục kinh Mân Côi mỗi ngày dâng để đền tội.

  • Dâng lên Chúa với lời nguyện:

[ ] 10. Thỉnh thoảng lãnh ơn xá (nếu có thể)

  • Khi có dịp:

    • Viếng Thánh Thể, đọc Kinh Thánh 30 phút, lần chuỗi chung, Đàng Thánh Giá…

  • Kèm theo:

    • Xưng tội (trước/sau trong thời gian quy định)

    • Rước lễ

    • Cầu nguyện theo ý Đức Giáo Hoàng

    • Quyết tâm dứt bỏ mọi quyến luyến tội lỗi

[ ] 1. Đừng hoảng, nhưng cũng đừng chần chừ

[ ] 2. Đến xưng tội bình thường

[ ] 3. Kể sự việc rõ ràng, nhưng kín đáo và gọn

[ ] 4. Tin rằng cha và Hội Thánh có cách giải quyết

[ ] 5. Sau đó sống như người đã được tha thứ

  • Siêng năng Thánh lễ

  • Cầu nguyện

  • Sống bác ái, phục vụ

Thứ Ba, 25 tháng 11, 2025

KHI CÒN BỐ MẸ – ĐỪNG VỘI BẬN

Người ta cứ bảo: “Làm con, phải hiếu thảo.”

Nghe thì đúng, nhưng mấy ai hiểu, chữ hiếu không nằm ở mâm cơm đầy, ở cái phong bì dày, hay món quà to…

Chữ hiếu, đôi khi chỉ bắt đầu từ việc đừng vội nói "con bận lắm" mỗi khi bố mẹ cần.

Hồi mình còn nhỏ, bố mẹ chẳng bao giờ bận.

Dù bận mấy, cũng gác lại để đưa con đi học, để nấu bát cháo lúc con ốm, để ngồi học bài cùng con – dù chẳng hiểu gì mấy cái "x + y" là gì.

Bố mẹ không có ngày nghỉ. Cũng chẳng biết deadline, KPI là gì. Chỉ biết rằng: con cần là có mặt.

Vậy mà đến khi mình lớn, chỉ cần một cuộc gọi của mẹ: “Hôm nay mẹ hơi mệt”

Mình cũng đáp lại: “Con đang họp, để lát nữa nhé mẹ.”

Lát nữa, là lát nào?

Người ta hay nghĩ báo hiếu là chuyện của lúc có tiền, có nhà, có xe…

Nhưng bố mẹ đâu cần những thứ đó.

Chỉ cần một tin nhắn hỏi han, một buổi chiều về sớm ăn cơm chung.

Một cánh tay đỡ khi bố mẹ loạng choạng bước xuống bậc thềm.

Một lời giới thiệu: “Đây là mẹ con đấy” – mà ánh mắt họ rưng rưng.

Chữ hiếu, thực ra không cần học – chỉ cần nhớ.

Nhớ bố mẹ từng vì mình sống ra sao, thì giờ… mình sống sao cho xứng.

Vậy nên, nếu hôm nay còn được nghe tiếng gọi "con ơi"...

Xin đừng vội bận.

Vì một ngày kia, khi muốn nghe lại – có khi… chẳng còn ai gọi nữa.

Tg: CGTL Đinh Đoàn

Thứ Sáu, 7 tháng 11, 2025

HỌC YÊU THÁNH GIÁ

 


Thập giá là biểu tượng của ơn cứu độ. Nói đến thập giá, ta nghĩ đến con đường thiêng liêng để nên thánh. Ta nghĩ đến thập giá của Chúa Giêsu, nghĩ đến cuộc khổ nạn đau thương của Người. Ta ước ao trở nên đồng hình đồng dạng với Người trong đau khổ để được thông phần với Người trong vinh quang (Rm 6,8; Lt 95). Có những lúc sốt mến nồng nàn, có khi ta không ngần ngại xin Chúa cho ta thêm thập giá, để chứng tỏ rằng ta yêu mến và để được chia sẻ đau khổ với Người ta yêu dấu. Tuy nhiên, cũng phải thừa nhận rằng, ấy là lúc ta đang cầu nguyện, ấy là lúc ta đang ở bên Chúa, ấy là lúc ta đang tĩnh tâm, ấy là lúc ta đang sốt mến dạt dào; còn thực tế, khi chân ta chạm vào mặt đất, tay ta vật lộn với cuộc sống mưu sinh, sống giữa đời thường, có lẽ ta phải cúi mình đấm ngực mà rằng thực tế ta không hề muốn thập giá.

Nếu thập giá nhẹ nhàng, ngọt ngào và dễ chịu, hẳn là nhân loại này thay thảy đều nên thánh cả; nhưng thập giá không như vậy. Thập giá lúc nào cũng trái ngược với bản tính con người trong ta. Có những tương quan khiến ta ngộp thở, bực bội và khó chịu, nhưng để sống tinh thần Tin Mừng, ta phải bỏ mình đón nhận. Có những lời mời gọi đầy hấp dẫn đê mê, nhưng để giữ cho mình trong sạch, ta phải chiến đấu với bản tính yếu đuối của mình. Có những điều trái ý, những nghịch cảnh, mất mát đau thương xảy đến trong đời, nhưng để sống như một người có niềm tin, ta phải học cách an lòng đón nhận.

Thập giá có đó như một nỗi giằng co giữa ước muốn thánh thiện với bản tính con người thấp hèn trong ta. Bởi lẽ, nếu không có ao ước hướng thượng, hẳn là ta có thể đã hành xử theo kiểu tự nhiên, theo thói đời lẽ tục, chẳng cần kiềm lòng, chẳng cần giữ kẽ, ‘mắt đền mắt, răng đền răng’. Nhưng vì ước ao nên hoàn thiện, thập giá trở nên như một thách đố. Ước muốn nên thánh thôi thúc ta vác lấy thập giá, nhưng bản tính yếu đuối trong ta xui là lẩn tránh. Và thập giá trở thành một nỗi chênh chao. Một điều ta vừa từ khước lại vừa ước ao.

Đọc Tin Mừng ta thấy Chúa Giêsu mời gọi các môn đệ của mình, “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo” (Mt 16,24). Người môn đệ là người theo Chúa Giêsu, người mang danh Kitô hữu cũng phải là người theo Chúa Giêsu. Ta không thể nói mình theo Chúa mà lại khước từ thập giá, vì chính Chúa cũng vác thập giá mà. Tuy nhiên, trước khi vác thập giá, Chúa Giêsu thẳng thắn mời ta phải từ bỏ chính mình trước đã. Vì sao lại phải từ bỏ chính mình trước? Liệu ta có thể vác thập giá khi chưa từ bỏ chính mình được không?

Hẳn là ta có thể vác thập giá khi chưa từ bỏ chính mình, nhưng khi ấy, thập giá không còn là thập giá nữa, mà sẽ là khổ giá. Vì khi chưa từ bỏ chính mình, cái tôi của ta sẽ ‘xù ra’ phản ứng. Ta sẽ vác thập giá trong nhọc nhằn khổ sở, trong cay đắng học hằn, trong trách móc chua cay: “Lạy Chúa, tại sao chuyện ấy lại xảy ra cho con? Con đã làm gì mà phải chịu thế này?…”. …Và điều mà ta không nghĩ tới, đó là, khi ấy, không chỉ mình ta vác khổ giá mà cả những người xung quanh ta cũng đang phải vác lây, bởi suốt ngày họ phải nghe ta ta thán, than thân trách phận, hận trời oán đất. Bầu khí bình an bị ta làm cho ra ô uế nặng nề; và thế là, thập giá của ta thành ra người ta phải vác. Thật khổ thân họ!

Cho nên, thập giá sẽ không còn là khổ giá nữa nếu ta biết từ bỏ chính mình.

Tuy nhiên, khi ta từ bỏ chính mình, không có nghĩa là thập giá sẽ nhẹ nhàng hơn. Điều ấy chỉ có nghĩa là ta sẽ không còn cảm thấy bất bình chua chát, không còn những phản ứng tiêu cực khiến ta khổ sở. Ta sẽ bình an chấp nhận thập giá. Ta sẽ thôi không còn chất vấn Chúa: “Vì sao chuyện ấy lại xảy ra cho con?”, mà sẽ hiểu ra rằng “Sao chuyện ấy lại không thể xảy ra cho con, con có là gì đâu, lạy Chúa!”. Ta sẽ thôi không còn quay quắt với chính mình nữa, mà sẽ mở lòng ra cho Chúa hướng dẫn để Người dạy ta biết ý nghĩa nhiệm màu của thập giá – điều mà khi còn quay quắt với chính mình, ta không tài nào hiểu nổi. Ta sẽ hiểu được ý nghĩa của nhưng nỗi đau, hiểu được giá trị của sự từ bỏ. Ta sẽ nhìn những mất mát đau thương ở đời bằng một ánh mắt khác, bằng đôi mắt của Thiên Chúa. Ta sẽ như anh trộm lành thân thưa với Chúa: “Lạy Chúa, con chịu như vậy là thích đáng, xứng với việc con làm.” Và trong cái nghèo nàn đến tột cùng của ta đó, lòng thương xót Chúa sẽ chảy tràn chan chứa trong ta niềm vui ơn cứu độ, “Ta bảo thật anh, ngay hôm nay anh sẽ ở trên Thiên Đàng với ta” (Lc 23,43)

Bạn thân mến, nếu một lúc nào đó bạn cảm thấy thập giá đời mình quá nặng nề, hãy nhớ rằng ta không vác thập giá một mình. Ta chỉ là người vác theo Chúa mà thôi. Có nhiều khi ta vác thập giá trong đời mà không theo Chúa, nên ta không cảm nhận được Chúa an ủi đỡ nâng. Bạn biết không, trên đồi Canve có đến ba cây gỗ thập, nhưng chỉ có một cây duy nhất là Thánh Giá, vì trên cây gỗ ấy, có Chúa Giêsu; còn hai cây kia, một cây là khổ giá, và một cây là thập giá. Phần bạn, bạn đang vác loại cây gỗ nào: khổ giá, thập giá hay thánh giá? Đừng quên Chúa Giêsu bạn ạ, có Người, thập giá sẽ trở thành Thánh Giá.

Dom Vũ Chí Kiên, SJ


Thứ Hai, 3 tháng 11, 2025

ĐỨC MẸ LY TRẦN Ở ĐÂU?



Ngôi nhà của Đức Mẹ Maria ở gần thành phố cổ Êphêsô, phía tây nam Thổ Nhĩ Kỳ.


Chúng ta mừng lễ Đức Mẹ hồn xác lên trời; nhiều lần các Đức Thánh Cha đã viếng thăm ngôi nhà của Đức Mẹ ở Êphêsô bên nước Thổ-nhĩ-kỳ. Có phải đây là nơi mà Đức Mẹ lìa đời không? 

Lịch Phụng vụ đặt tên cho lễ mừng vào ngày 15/8 là lễ Đức Mẹ hồn xác lên trời. Nói đúng ra, tên của ngày lễ được lấy từ tín điều của Giáo hội công giáo, mà nếu dịch đúng ra phải nói “Đức Mẹ được cất về trời” (InAssumptione Beatae Mariae Virginis). Bên các giáo hội Đông phương, nơi xuất phát của lễ này, thì danh xưng là “Đức Mẹ an giấc” (Dormitio sanctae Mariae), hay là “ngủ yên”. Chung quanh ngày lễ này có rất nhiều câu hỏi được đặt ra mà tôi không thể nào trả lời trong vòng 10 phút được, mặc dù chỉ muốn giới hạn vào phạm vi lịch sử chứ không đi vào khía cạnh thần học. Những câu hỏi chính mang tính cách lịch sử có thể tóm lại như thế này: Đức Mẹ ly trần lúc nào, ở đâu? Dựa vào tài liệu nào mà biết được? Từ hồi nào phụng vụ mừng lễ Đức Mẹ an giấc?

Đức Mẹ ly trần lúc nào? Câu hỏi này dễ trả lời hơn cả phải không?

Không có câu hỏi nào dễ hết, bởi vì tất cả đều liên hệ với nhau, và móc nối với câu hỏi căn bản là: dựa vào tài liệu nào mà biết được những chi tiết về cuộc đời của Đức Mẹ Maria? Tài liệu lịch sử quan trọng nhất của đức tin Kitô giáo là Tân ước. Thế nhưng Tân ước chỉ cho thấy sự xuất hiện của Đức Maria trong cuộc đời của Chúa Giêsu, kể từ khi Truyền tin, Giáng sinh, cho đến lúc Chúa chết trên thập giá. Đức Maria còn được nhắc đến một lần nữa nơi sách Tông đồ công vụ (1,14), kể lại sự hiện diện của Người với các môn đệ ở Giêrusalem cầu nguyện trong thời gian chuẩn bị lãnh nhận Chúa Thánh Thần. Từ đó trở đi, không ai biết Người sống chết ra sao. Một cách tương tự như vậy, không ai biết được cuộc đời của Đức Maria trước lúc được Truyền tin như thế nào, thân thế ra sao.

Lịch phụng vụ cho chúng ta biết quý danh của song thân Đức Maria là thánh Gioakim và thánh Anna đấy chứ.

Đúng rồi, nhưng dựa vào chứng tích nào. Tân ước không có nói gì hết. Trước sự im lặng của Tân ước, các thế hệ Kitô hữu tiên khởi đã tìm cách lấp đầy các lỗ hổng về cuộc đời Đức Maria bằng những tài liệu mà ngày nay chúng ta gọi là “ngụy Phúc âm”. Thoạt nghe nói đến “ngụy thư”, có lẽ nhiều người nổi da gà. Thực ra ở đây, “ngụy” chỉ có nghĩa là không được Giáo hội nhìn nhận như là “được ơn linh hứng”, chứ không hẳn là sai lầm. Bằng cớ là quý danh song thân của Đức Maria, cũng như việc đức Maria dâng mình vào đền thờ đều dựa theo một ngụy thư mang tên là “Tiền Phúc âm thánh Giacôbê”. Các ngụy thư về đức Maria tựu trung vào những điểm sau đây: 1/ Gia thế và tuổi xuân của Đức Maria cho đến lúc đính hôn với thánh Giuse. 2/ Đức Maria trong thời niên thiếu của Đức Giêsu, nghĩa là lúc lánh nạn bên Ai-cập. 3/ Đức Maria vào lúc Tử nạn và Phục sinh của Chúa Giêsu. 4/ Đức Maria ly trần. Như đã nói trước đây, chúng ta chỉ dừng lại ở điểm chót này.

Tân ước không nói gì về thời gian và địa điểm Đức Maria lìa đời. Như vậy là tất cả đều dựa theo ngụy thư hay sao?

Đúng như vậy. Tuy nhiên, như vừa nói, ngụy thư không có nghĩa “sách lừa bịp”. Mặt khác, chúng ta đang chỉ nói đến khía cạnh lịch sử chứ không bàn đến khía cạnh tín lý. Vì thế các tài liệu gọi là “ngụy thư” có thể coi như chứng tích của các lưu truyền dân gian, và cần được đánh giá theo thể văn đó. Đi vào vấn đề cụ thể, nghĩa là về chuyện Đức Mẹ lìa đời (Transitus Virginis), chúng ta có hai nguồn truyền khẩu. Một nguồn cho rằng Đức Mẹ đã an giấc tại Giêrusalem vào khoảng một năm sau khi Chúa Giêsu lên trời; các thánh tông đồ đã tiễn đưa Người ra mộ trước khi chia tay nhau đi giảng đạo. Một nguồn khác cho rằng Đức Mẹ đã sống thêm một thời gian nữa với thánh Gioan, và đi theo vị tông đồ này sang Êphêsô; dĩ nhiên, theo lưu truyền này thì Đức Mẹ an giấc tại Êphêsô.

Lưu truyền nào đáng tin hơn?

Tôi không phải là nhà chuyên môn về sử học, cho nên chỉ kể lại những điều đọc thấy trong sách vở thôi. Xét về mặt lịch sử, lưu truyền về việc Đức Mẹ an giấc tại Giêrusalem xem ra đáng tin hơn, theo nghĩa là lễ phụng vụ kính Đức Mẹ an giấc bắt đầu từ đây, tại ngôi đền thờ được cất ở trên ngôi mộ của Người.

Như vậy Đức Mẹ an giấc hay là chết?

Trong tiếng Việt cũng như trong nhiều ngôn ngữ khác, người ta kiêng nói đến “chết, tử”, và thay bằng những từ ngữ như là “qua đời, an nghỉ, tạ thế, lìa đời, vv”. Có lẽ không phải chỉ vì muốn dùng từ ngữ thanh tao hơn, nhưng còn muốn nói rằng sau cuộc sống ở dương gian này, còn có cuộc sống khác nữa. Đối với đức tin Kitô giáo, chúng ta tin rằng sau cái chết, linh hồn bất tử vẫn tồn tại bên Chúa. Riêng với Đức Maria, thì không những là linh hồn mà cả thân xác cũng được ở bên Chúa; nhưng thử hỏi: Mẹ có phải trải qua cái chết trước khi được hồn xác được đưa lên trời hay không? Các nhà thần học không nhất trí. Chúng ta tạm gác qua chuyện thần học sang một bên, và trở về với các nguồn truyền khẩu. Dựa theo những ngụy thư mang tên là sự an giấc của Đức Maria, thì không lâu sau khi Chúa lên trời, một thiên sứ đến báo tin cho Mẹ biết rằng sắp đến ngày ra đi. Mẹ liền mời các thân nhân đến để ở gần bên cạnh vào lúc kết thúc cuộc đời. Các thánh tông đồ cũng được triệu tập đến. Một buổi canh thức và cầu nguyện đã diễn ra vào đêm cuối cùng, và sáng hôm sau, Chúa Giêsu đã đến đem linh hồn Mẹ về trời. Các thánh tông đồ chôn cất thân xác Mẹ trong một ngôi mộ mới cất. Ba ngày sau, Chúa Giêsu và các thiên sứ đến đưa thân xác Mẹ về thiên đàng và được kết hiệp với linh hồn. Đó là những đại cương, bởi vì xét về chi tiết thì có nhiều dị biệt giữa các phiên bản, thí dụ như về thời gian (1 năm, hay lâu hơn sau khi Chúa lên trời), về địa điểm (Bêlem hay là Giêrusalem?).

Lúc nãy cha nói rằng lưu truyền về Đức Mẹ an giấc ở Giêrusalem thì cổ xưa hơn lưu truyền về an giấc ở Êphêsô, cho nên đáng tin hơn phải không?

Tôi nói là lễ kính Đức Mẹ an giấc bắt nguồn từ Giêrusalem, chứ không phải từ Êphêsô. Tuy nhiên điều này không có nghĩa là các lưu truyền về Đức Mẹ an giấc đều có giá trị lịch sử. Lý do là vì xem ra các tài liệu này ra đời muộn, nghĩa là vào thế kỷ V. Thật vậy, vào khoảng năm 377 (nghĩa là cuối thế kỷ IV), đức cha Êpiphaniô giám mục Salamina (+403), đã từng sống lâu năm ở Giêrusalem đã viết rằng Kinh thánh không nói gì về việc Đức Mẹ kết thúc cuộc đời như thế nào, và vì thế đã có ít là ba giả thuyết: thứ nhất, Đức Mẹ được Chúa đưa lên trời; thứ hai, Đức Mẹ được tử đạo; thứ ba, Đức Mẹ chết như bao nhiêu sinh linh khác. Tác giả không biết nên theo ý kiến nào, tuy xác tín rằng cuộc đời của Đức Mẹ kết liễu cách khác thường (Panarion 78,11.24). Dù sao cũng nên biết là từ cuối thế kỷ VI (khoảng giữa các năm 540 và 570), có lễ kính Đức Mẹ an giấc được mừng vào ngày 15 tháng 8, và bành trướng sang Tây phương vào thế kỷ VII. Không thiếu sử gia đã nêu lên câu hỏi: phải chăng lễ phụng vụ bắt nguồn từ các ngụy thư, hay nguỵ thư bắt nguồn từ lễ phụng vụ? Tôi xin miễn đi sâu vào vấn đề này.

Còn lưu truyền về việc Đức Mẹ an giấc tại Êphêsô ra đời từ hồi nào?

Theo Phúc âm thứ bốn, Chúa Giêsu từ trên thập giá đã ký thác thánh Gioan cho Đức Mẹ và ký thác Đức Mẹ cho thánh Gioan, rồi từ đó, môn đệ Gioan đưa Mẹ về nhà mình (Ga 19,27), và Mẹ cũng theo Gioan trên đưỡng truyền giáo. Theo một lưu truyền, thánh Gioan đã hoạt động ở Êphêsô, vì thế Đức Mẹ cũng đi theo thánh Gioan và qua đời tại đây. Hồi tháng 11 năm ngoái, đức thánh cha Bênêđictô XVI (theo gương của hai vị tiền nhiệm Phaolô VI và Gioan Phaolô II), trong chuyến du hành sang Thổ nhĩ kỳ, có đến thăm ngôi nhà này, được người địa phương đặt lên là nhà của Mẹ Maria (Meryem Ana Evi). Các nhà khảo cổ cho rằng nền của ngôi nhà này mang vết tích của thế kỷ I của Công nguyên. Nhưng làm sao chứng căn nhà này là của đức Maria được, cũng như chị biết là tại Loreto ở bên nước Ý, cũng có một ngôi nhà tục truyền là của đức Maria ở Nazareth.

Lưu truyền Êphêsô có giá trị lịch sử đến mức nào?

Trên đây tôi đã nói rằng lưu truyền Giêrusalem ra đời trước, vào khoảng thế kỷ VI. Lưu truyền Êphêsô ra đời muộn hơn, và gặp thấy khá nhiều vấn nạn. Thứ nhất là cần kiểm chứng xem thánh Gioan có sang Êphêsô không. Thứ hai, cần kiểm chứng xem Đức Mẹ có đi theo thánh Gioan hay không. Tuy nhiên, dưới một mặt khác, chúng ta đừng nên quên rằng lòng tôn kính Đức Mẹ trong Hội thánh đã tăng trưởng kể từ sau công đồng họp tại Êphêsô năm 431. Biến cố này là nguồn gốc của các bài giảng và các lưu truyền về cuộc đời Đức Maria. Vì thế xét về giá trị lịch sử, thì khó nói được lưu truyền nào hơn lưu truyền nào, bởi vì chính công đồng Êphêsô là khởi điểm cho sự phát triển lòng tôn kính Đức Mẹ, kể cả lễ phụng vụ cử hành tại Giêrusalem. Như đã nói ngay từ đầu, tôi chỉ bàn đến khía cạnh lịch sử chứ không đi vào khía cạnh tín lý, bởi vì tín điều về Đức Maria hồn xác lên trời dựa trên các chứng cứ mặc khải và thần học, chứ không dựa trên các truyền kỳ dân gian.

Lm. Giuse Phan Tấn Thành, op.


Thứ Tư, 10 tháng 9, 2025

Lịch sử truyền giáo Dòng Đa Minh tại VN

Tòa Thánh trao hẳn địa phận Đông Bắc Việt cho các cha Đaminh tỉnh dòng Mân Côi Phi-luật-tân 1757
Theo lời mời của Đức Cha Pallu và Lambert de La Motte, năm 1678 có 3 cha dòng Đaminh từ Phi luat tan đến truyền giáo tại địa phận đông Bắc Việt giữa lúc đang có cuộc bách hại đạo. Ban đầu các cha Juan Cruz, Morales và Arjona chán nản bỏ về thái lan, nhưng sau khi được Đức Cha Laneau hứa giải quyết mọi đòi hỏi nên 3 cha trở lại Bắc Việt 2-9-1679. Cuộc bắt đạo tiếp tục với mức đọ gắt gao hơn, 2 cha Arjona và Morales đang tìm đường về thái lan thì bị bắt và bị trục xuất 1-12-1680, chỉ có mình cha Cruz nhất định ở lại truyền giáo. Cha Cruz lần lượt làm cha chính năm 1707 và gm đại diện tông tòa năm 1716.
Ban đầu các cha đaminh được chỉ định truyền giáo ỏ 5 huyện tại Nam Định. Vì cuộc bắt đạo các cha phải trốn trành ờ kẻ sặt thuộc xứ đông hay vào thanh hóa. Sớ thừa sai đaminh cũng không nhiều lắm, nhóm đầu tiên 3 người thì 2 người rút lui, nhóm thừ hai tời nam 1693 thì 1 cha chết sớm, 1 cha về lại Manila. Nhóm thứ 3 gồm 2 cha đến năm 1696 thì 1 cha bị trục xuất vì thế vào đầu thế kỉ 18 chỉ có cha Cruz vá Pedro santa Teresa người tây ban nha và cha Lezzoli, người Y do bộ truyền giáo phái đền năm 1680 và sau khi Đức Cha Deydier chết được tòa thánh bổ nhiệm làm gm đại diện tông tòa địa phận đông Bắc Việt nâm 1698. Bộ truyền giáo tiếp tục sai thừa sai đến Bắc Việt, năm 1701 có thêm cha Sestri dòng đaminh người Y, cha Giovanni dòng augutinh nguoi y và 2 cha dòng phanxico. Đưc Cha Bourges coi địa phận Tây Bắc Việt nhất định không nhận thêm thừa sai dòng. Số thừa sai ngoại quốc tới đông khiến các cha VN hoặc phải coi những họ đạo trên miền bắc hoạc trả sang địa phận Tây Bắc Việt.
Từ năm 1717 cha Juan Cruz được chỉ định làm gm, đã dành 1 số họ đạo lớn cho dòng của mình khiến các cha augutinh kiện với bộ truyền giáo. Năm 1721 dc Cruz qua đời và Đức Cha Sestri dòng đaminh người y do bộ TG sai đến cũng muốn dành xứ đạo lớn để đưa thêm các cha đaminh người y sang. Lúc này tòa thánh sai cha Soffietti dòng phanxico đến truyền giáo và làm thanh tra để giải quyết các tranh chấp bằng việc ký những hợp đồng. Năm 1738 dc Ilario dòng augutinh người ý cai quản địa phận đông Bắc Việt và dành nhiều ưu tiên cho dòng augutinh khiến các cha đaminh bất mãn.
Về hoặt động truyền giáo của các cha đaminh trong nửa đầu thế kỉ 18 đáng kể nhất là việc triều đình TBN năm 1738 cấp 6 học bổng cho người VN sang học ở Manila, tất cả đã nhập dòng đaminh, ttrong số này có cha thánh Vinh Sơn Liêm, tử đạo năm 1773 và hiện nay được đại học thánh toma ở manila dựng tượng tôn kính. Một diểm khác đáng lưu ý la từ nâm 1738 các cha đaminh cũng bắt đầu thâu nhận người Việt vào dòng. Lần lượt năm 1738 có 2 cha, 10 năm sau 1747 thêm 3 cha nữa. như thế dòng đaminh là dòng chậm nhất trong việc nhận người bản xứ vào dòng. Người VN trước hết làm lm là do các cha thừa sai pháp huấn luyện và phong chức năm 1668, rồi tới lượt các cha dòng tên khoảng nam 1692 và các cha dòng augutinh nam 1728. Giáo đoàn của các cha đaminh gặp khủng hỏang về nhân sự từ năm 1740 Trong 5 năm có 5 thừa sai qua đời, trong số này có 2 cha tử đạo năm 1745, đó là cha thánh Gil de federich có tên việt là Tế va cha Mateo liciniana có tên việt là Đậu. Thừa sai đaminh TBN duy nhất còn lại là cha Luis Espinosa đã tức tộc nhận thêm nhiều người việt vào dòng và khẳn cắp xin thêm thừa sai. Năm 1750 chử có mình cha Espinosa và 7 cha đaminh VN, giáo đoàn bị đe dọa. Nam sau 1751 được thêm 2 thừa sai tới là Hernandez và Martin.
Theo lời xin của triều đình TBN ngày 6-11-1745 Bộ truyền giáo đề nghị lên ĐTC xin chuyển các cha dòng augutinh hiện chỉ có 4 người y sang giảng đạo bên Trung Hoa và nhường kẻ sặt và tất cả xứ đông cho các cha dòng daminh nhu toà thánh dả trao hẳn diạ phận tay cho các cha thừa sai Pháp. trong số cac thừa sai daminh xin chỉ cha Pedro Ponsgrau, be tren daminh dã ở Bắc Việt từ năm 1732, làm gm phụ tá cho Đức Cha Ilario, va sẽ kế vị khi ngài qua đời. Nhà dòng và triều đình TBN xin chịu mọi chi phí cho các thừa sai và gm. Cũng trong thời gian này Đức Cha Ilario viết nhiều thư yêu cằu bộ truyền giáo chỉ định cha Lorenzo dòng augutinh làm gm phụ tá. Cả 2 lời xin đều không được thi hành. Cha Ponsgrau chết năm 1747, số thừa sai daminh giãm sút thê thảm chỉ còn lại cha Espinosa. Vì thế toà thánh giữ nguyên tình trạng.
Đến năm 1753 dc Ilario và dc Nêz họp công đồng chung để giải quyết các tranh chấp về các giáo đoàn. Lúc này dòng Đaminh chỉ có 3 thừa sai nên rất bất lợi và đã không tham dự công nghị, đồng thời sau khi công nghị kết thức đã cử cha Hernandez về Roma vận động. Dòng Augutinh cũng cử cha Lorenzo về roma. Sau cùng trong phiên họp ngày 15-5-1757 bộ truyền giáo quyết dịnh duy trì các cha dòng augutinh coi sóc Kẻ Sặt và dòng daminh coi Lục Thủy, các nhà dòng nư thuộc quyền cha xứ. Nhưng các vị hồng y lại xin DTC đặt cha Hernandez làm gm đại diện tông tòa địa phận đông và giao hoàn toàn địa phận đông cho các cha Daminh. Với sự kiện mới này,ngày 1-8-1757 bộ truyền giáo đặt cha Espinosa làm cha chính và đồng thời gọi các cha dòng augutinh người Italia về còn các cha dòng augutinh vn hoặc ra triều hoặc theo các cha sang nhá dòng ở âu châu.
Vì phương tiện liên lạc khó khăn và lâu dài, những quyết định của bộ truyền giáo chưa tới Bắc Việt thì xảy ra một cuộc xung đột lớn. Đức Cha Ialrio qua đời nam 1754 và cha adriano dòng augutinh làm cha chính. Cac cha đaminh áp dụng luặt dòng tự động xin cha Paulus Campos dòng tên làm quan toà để bảo vệ quyền lợi. Trong khi đó theo lệnh trước đây của bộ thì gm địa phận kế cận tạm giám quản cho tới khi có gm mới, cha Campos ra va tuyệt thông cho cha cha chính adriano ngày 22-11-1758. Đức Cha Nêz viết thư cho cha Campos nói là cha không được làm như vậy. Tức thời cha Campos ra vạ tuyệt thông cho cả Đức Cha Nêz nữa .
Tình trạng trở nên rối loạn khiến tòa thánh phải cấp tốc cử Đức Cha Boucher, dòng phanxico gm Shensi bên trung quốc làm kinh lược tông tòa sang giải quyết. Đức Cha Boucher đã giải các vạ, tuyên bố tất cả các bí tích làm trong thồi kỳ rối loạn này đều thành sư và đề nghị triệu hồi cha Espinosa, lobresols về âu châu. Đức Cha kinh lược tòa thánh cũng xin xét lại quyết định triệu hồi các cha dòng augutinh vì giáo dân không phục các cha đaminh. Một lần nữa ngày 22-12-1764 Bộ truyền giáo quyết định giữ nguyện lệnh năm 1757, trao toàn điạ phận đông cho dòng daminh và triệu hồi các cha dòng augutinh, đồng thời ra lệnh cho cha Adriano phải rồi Bắc Việt. Từ đây về sau các các gm coi địa phận đông đều thuộc dòng Đaminh.

Thứ Hai, 23 tháng 12, 2024

Chấp nhận khoảng cách lại là cách để giữ gìn những kỷ niệm đẹp nhất...



Chấp nhận khoảng cách lại là cách để giữ gìn những kỷ niệm đẹp nhất...


Có những mối liên hệ, dù từng rất thân thiết, cũng sẽ phai nhạt theo thời gian. Không phải vì ta quên, mà vì cuộc sống có cách sắp xếp riêng của nó. Những con đường khác nhau, những ngã rẽ không định trước, khiến hai người dù từng rất gần gũi cũng dần cách xa. Điều này không có nghĩa tình bạn mất đi, mà chỉ đơn giản là mối quan hệ ấy đã đổi thay theo cách tự nhiên.

Thật khó để giữ mọi thứ nguyên vẹn như thuở ban đầu. Ta lớn lên, thay đổi, đối mặt với những trách nhiệm và mối quan tâm mới. Những cuộc trò chuyện từng là hàng ngày giờ trở thành những tin nhắn thưa thớt. Nhưng điều đó không sao cả. Có những người, dù không còn xuất hiện thường xuyên trong đời ta, vẫn giữ một vị trí đặc biệt trong ký ức.

Chấp nhận sự phai nhạt không có nghĩa là phủ nhận giá trị của những mối quan hệ ấy. Thay vào đó, nó dạy ta biết trân trọng những gì đã có. Người bạn cấp ba, người từng đồng hành qua những năm tháng khó quên, giờ đây dù xa cách, vẫn là một phần quan trọng trong câu chuyện đời bạn. Có thể không còn những buổi gặp gỡ thường xuyên, nhưng kỷ niệm sẽ luôn là sợi dây vô hình kết nối hai người.

Đôi khi, điều ý nghĩa nhất ta có thể làm không phải là cố níu kéo, mà là học cách giữ lòng biết ơn. Cảm ơn những người đã đến và làm đầy những ngày tháng thanh xuân. Cảm ơn những cuộc trò chuyện, những lần cười giòn tan, những lúc sẻ chia không cần lời. Và cũng cảm ơn cả sự phai nhạt, vì nó nhắc ta rằng, mọi thứ đều có thời điểm, và việc để mọi thứ diễn ra tự nhiên cũng là một cách để yêu thương.

Thiên Chúa dạy ta rằng, mọi mối quan hệ đều có ý nghĩa riêng. Một số người đến để đồng hành với ta suốt đời, trong khi một số khác chỉ xuất hiện trong một đoạn ngắn, nhưng cũng để lại dấu ấn không thể phai mờ. Cả hai đều là ân sủng, là bài học về yêu thương, chia sẻ, và trưởng thành.

Thay vì tiếc nuối những gì không còn, hãy chọn cách nhìn lại với niềm vui. Nếu một ngày nào đó con đường đưa bạn và người bạn cũ gặp lại, hãy mỉm cười, kể nhau nghe những câu chuyện đã qua, như một cách để tái hiện lại mối dây liên hệ từng rất đẹp. Và nếu không có ngày ấy, cũng không sao. Vì đôi khi, việc chấp nhận khoảng cách lại là cách để giữ gìn những kỷ niệm đẹp nhất.

Thứ Năm, 21 tháng 11, 2024

Những người thầy thầm lặng


Bạn thân mến,

 

Trong tháng 11 này, chúng ta đặc biệt nhớ đến những người thầy, người cô, những người đã dìu dắt và dạy dỗ ta trong hành trình làm người. Những người thầy, người cô ấy chính là những người lái đò thầm lặng chở biết bao nhiêu đoàn khách cập bến tương lai, chẳng những là kiến thức mà còn cả lối sống và sự tận tâm của các ngài.

 

Người lái đò vẫn thầm lặng trong chính cái đều đặn, cái hàng ngày của mình. Dòng đời ngược xuôi, có những lúc sóng yên biển lặng, có khi trời mưa giông bão tố, có những người thầy vẫn lặng lẽ đưa những thế hệ học sinh cập bến tương lai. Cập bến rồi, người ấy lại lặng lẽ về đón những chuyến đò sau. Họ vẫn kiên trì và miệt mài làm những công việc như thế. Người nhớ, kẻ quên. Sóng to, sóng nhỏ. Họ vẫn tiếp tục điều họ đã chọn Thử hỏi trong đời người, chúng ta đi qua biết bao sóng gió, gặp bao nhiêu người lái đò? Cũng vậy, có biết bao nhiêu chuyến đò đã đi ngang qua đoạn sông ấy. Vậy điều gì đã khiến cho người ta ghi khắc bác lái đò này, cô lái đò kia? – Đó là TÌNH NGƯỜI. Tình người nảy sinh từ một tương quan bền chặt và sâu sắc, chứ không hời hợt thoáng qua. Tình người cũng nảy sinh từ một tấm lòng biết ơn, mà người ta chỉ biết ơn khi ý thức rằng mình là người được nhận ơn. Tiếc rằng, đi qua nhiều con đò, người ta nghĩ rằng trả tiền đò coi như chẳng còn nợ nần gì nhau. Tiếc rằng người ta chỉ đem đặt sự hy sinh và chữ “TÂM” đằng sau chữ “TIỀN”. Nhưng người đời dù có nghĩ thế nào, người thầy vẫn thầm lặng đưa những chuyến đò băng qua những con sông đầy sóng to gió lớn của lợi và danh.

 

Tình người nảy sinh từ một tương quan bền chặt và sâu sắc, chứ không hời hợt thoáng qua. Tình người cũng nảy sinh từ một tấm lòng biết ơn, mà người ta chỉ biết ơn khi ý thức rằng mình là người được nhận ơn.

 

Người lái đò thầm lặng cũng là bởi người ấy biết lắng nghe. Có lẽ trong cuộc đời này, một trong những điều khó khăn nhất là lắng nghe. Có những người chỉ muốn nói về những thành công trong quá khứ của mình, để thế hệ trẻ tròn mắt nể phục. Nhưng có những người dành thời gian để lắng nghe. Người ta chỉ biết lắng nghe khi có sự nhạy bén và quan tâm thực sự. Làm cho người ta ngưỡng mộ đã khó, nhưng để người ta yêu mến thì càng khó hơn. Khi ngưỡng mộ, người ta chỉ đứng xa xa ngắm nhìn. Còn khi yêu mến, người ta sẽ đến gần và tỏ bày cuộc sống. Khi đứng xa, người ta chỉ có thể thấy những điều bên ngoài. Còn khi đến gần, người ta mới cảm nếm được những cố gắng và nỗ lực, những lo lắng và cả những cuộc chiến nội tâm. Có những người thầy đã lắng nghe với tất cả sự kiên nhẫn, trân trọng và thương yêu.

 

Người ta chỉ biết lắng nghe khi nào biết đặt câu hỏi. Những câu hỏi giúp người ta khám phá ra dần những điều còn ẩn kín, làm cho những điều mù mờ được sáng tỏ, và những điều giả trá được tỏ lộ. Khi đặt câu hỏi, người thầy giúp học trò của mình khám phá ra những chân lý – chân lý của kiến thức và chân lý của cõi lòng. Khi đặt câu hỏi, người thầy cũng để mình bị chất vấn. Lớp học do đó không chỉ là lớp học của thầy cho trò, mà là lớp học dành cho tất cả những ai tìm kiếm Sự Thật. Một cô học trò lém lỉnh đã kể lại rằng: Có một lần nọ, em đã muốn thử thách thầy giáo của mình nên đã đặt ra câu hỏi thách đố. Những tưởng thầy sẽ trả lời ngay lập tức, nhưng thầy bảo: “Vấn đề này thầy cũng không chắc chắn, để thầy về tìm hiểu lại ngày mai sẽ trả lời em.” Cái tính xốc nổi muốn thử thách nhau, muốn khẳng định mình của đám học trò lại được đáp trả bằng sự khiêm tốn. Ông không coi cái mác “ông thầy toàn năng” mà thiên hạ tôn cho để tự đặt mình dưới chân lý. Đúng là chỉ khi người ta muốn tìm kiếm và đặt mình dưới chân lý, người ta mới có đủ dũng khí để sống thật là mình như thế. Ông dạy cho học trò thái độ của kẻ khiêm tốn và luôn tìm chân lý. Ông im lặng để lắng nghe sự thật.

 

Khi đặt câu hỏi, người thầy cũng để mình bị chất vấn. Lớp học do đó không chỉ là lớp học của thầy cho trò, mà là lớp học dành cho tất cả những ai tìm kiếm Sự Thật.

 

Thầm lặng để nhận ra những điều thầm lặng. Chỉ vì muốn chuyển trao những gì mình đã được cho một cách nhưng không, có những người thầy đã miệt mài cả đời với niềm hạnh phúc nho nhỏ khi thấy học trò của mình tiến bộ từng ngày. Mà người ta chỉ nhìn thấy được sự tiến bộ nho nhỏ nếu biết quan sát và chăm sóc. Một người biết chăm cây sẽ chú ý tới sự phát triển của nó từng ngày. Sáng sáng, người ấy thức dậy với niềm vui vì thấy nó đang lớn lên, đang ra nhánh mới, đang đơm hoa và đang kết trái. Người ấy cũng lo âu khi thấy những nguy cơ, những mầm bệnh của nhánh cây non, và cũng phải dũng cảm để cắt tỉa nó. Trong bộ phim ‘The Giver’ – Người Truyền Ký Ức’, người thầy đã phải can đảm lắm, phải tinh tế lắm mới có thể chuyển trao không chỉ những niềm vui và hãnh diện của loài người, mà cả những đau khổ, những tổn thương và sai lầm. Và một khi đã trao lại những kiến thức, những ký ức của nhân loại, ông thầm lặng dõi theo chọn lựa của cậu học trò. Chỉ sự tinh tế mới thấy được những chuyển biến của lớn lên, của thụt lùi. Sự tiến bộ và lớn lên của một thế hệ mới, thế hệ tương lai của dân tộc là một con đường dài đòi hỏi nhiều kiên nhẫn.

 

Đôi khi, người ta dễ để mình bị cuốn theo cái mau qua của thế giới vật chất, với những lo toan của cơm áo gạo tiền hay thành công trước mắt, người ta có thể nghĩ đến chuyện mua bán cả tri thức và lương tâm. Một em học sinh khi được hỏi về người thầy mà em nhớ nhất, em bảo rằng: “Em không thấy ấn tượng nhiều về các thầy cô của mình. Bởi khi đi học toàn áp lực, không tìm thấy niềm vui.” Và với em, những bài thơ về người thầy, người cô dường như là một thứ xa xỉ, bởi điểm số và thành tích đã in hằn những nỗi đau cho tuổi học trò. Cũng có khi, cái mặc định khách quan rằng: trò phải kính trọng thầy đã trở thành rào cản để người ta suy nghĩ thực sự về tình thầy trò thiêng liêng ấy. Tình mến chỉ xuất hiện trong tương quan giữa người với người. Vinh quang, kỳ tích có thể mang lại niềm vui chiến thắng trong giây phút ngắn ngủi, những lối nghĩ, lối sống của cả một thế hệ là điều quan trọng hơn cả. Cái gọi là tồn tâm dưỡng tính đôi khi không quan trọng bằng điểm số và danh dự. Có lẽ, vấn đề không chỉ là những kiến thức mà còn là tâm thế sử dụng và tiếp cận kiến thức. Ước gì xã hội không vắng bóng những người thầy nâng “tầm” con người nhờ chữ “tâm”.

 

Lúc này, ta hãy dành ít phút cầu nguyện cho những người thầy người cô của chúng ta, những người nghiêm khắc hay dịu hiền, những người ta được gặp lại hay những người đã khuất, những người ta vẫn còn ghi khắc trong tâm hồn hay những người ta chưa một lần chợt nhớ. Ước gì ta được trở lại những khoảnh khắc tinh khôi nhất của đời học trò. Và ước gì ta cũng cống hiến với sự tận tâm, khiêm tốn và yêu mến chân lý trong công cuộc truyền trao những tri thức mình được lãnh hội cho thế hệ tương lai.

 

Trần Đỉnh, S.J

Bài viết từ Dongten.net

Thứ Bảy, 17 tháng 8, 2024

CÓ HẠT MƯA NÀO CHỊU NHẬN MÌNH TẠO RA CƠN LŨ?


Khi cơn lũ đến, chẳng có hạt mưa nào nghĩ rằng nó góp phần tạo ra cơn lũ ấy. Bởi hạt mưa nào cũng cho rằng mình thì quá mỏng manh, quá bé nhỏ. Nào gây ra tổn hại nào được đâu.

Luật Nhân Quả nhiều lúc rất xa xôi. Nó giống như một cái đập cánh giữa không trung của con bướm tận Châu Phi mà thành sóng thần ở Châu Á. Thế nên một hạt mưa ngỡ như vô hại mà thành cơn lũ lớn trong đời.

Tôi nghe nhiều câu chuyện ngoại tình cũng vậy. Luôn bắt đầu bằng những thứ lớn lao và dữ dội như một trận lũ quét. Những lý do người ta đưa ra vô cùng hợp lý. Như chồng vô tâm. Như vợ không chia sẻ được. Như những chằng chịt của các mối quan hệ mẹ chồng nàng dâu, gia đình nhà vợ... Luôn hợp lý. Hợp lý như một cơn lũ quét vừa xảy ra. Nhưng những hạt mưa thì không thấy ai nói tới dù chính nó góp phần tạo nên trận lũ ấy!

Một hạt mưa nhỏ bé và vô danh. Có khi không nhiều hơn một giọt nước mắt. Như tới bữa cơm người vợ không còn đợi chồng về ăn cùng. Như niềm vui bé xíu người chồng thôi mang về kể lại cho vợ nghe. Như chiếc áo mới mua về quên cắt mác thì chồng mới biết vợ mình vừa có áo mới. Như tiếng thở dài cứ nuốt ngược vào trong. Như nhiều điều nhỏ bé khác mang hình hài hạt mưa vô danh nọ... Mà ta vô tâm không nhìn ra. Những hạt mưa vô danh, bé xíu xiu, xảy đến mỗi ngày, đâu đó trong đời sống của 2 vợ chồng. Ừ, ai biết cho nổi, ai quản cho cam? Cho đến khi cơn lũ tới…

Cơn lũ tới! Nó tàn phá tan hoang mọi nơi nó đi qua. Hôn nhân tan tành là bởi cơn lũ. Nó quét sạch mọi điều tốt đẹp mà cả 2 đã có với nhau. Nó huỷ diệt hy vọng. Nó xoá sạch ước mơ. Có khi người chồng vẫn còn ngơ ngác mà không tin vào mắt mình. Có khi người vợ suy sụp mà chẳng biết bấu víu vào đâu. Inbox tôi luôn ngập tràn những giọt nước mắt như thế. Của nhiều người vợ, người chồng tổn thương sau cơn lũ lớn đời họ. Nhưng tuyệt nhiên, tuyệt nhiên, chẳng ai nhớ đến hạt mưa nọ mình đã buông vào đâu đó trong đời sống vợ chồng sớm mai nọ. Chẳng ai nhớ. Chẳng ai nhớ hạt mưa vô danh ấy!

Hôn nhân. Vẫn không phải là chuyện tự sinh tự diệt. Người ta vốn không phải lấy nhau về, sinh con, đẻ cái là thành hôn nhân. Lại càng không phải cứ sống bên nhau, ngủ với nhau, ăn cùng nhau đã thành hôn nhân. Mà nó là một cuộc đời, một số phận. Nó cần dinh dưỡng và dung dưỡng. Nó cần được chắt chiu và trân trọng. Nó cần biết nhận ra những hạt mưa vô danh bởi nỗi sợ một cơn lũ quét. Để chặn những hạt mưa vô danh. Để sửa những hạt mưa vô danh. Để tránh những hạt mưa vô danh. Trước khi nó thành cơn lũ quét.

Có người sẽ bảo: Vậy thì mỏi lắm nhỉ? Hôn nhân sao vất vả thế? 

Không! Tôi không nghĩ vậy! Hạt mưa vô danh thì nhiều lắm. Đỡ không hết đâu. 

Nhưng hãy cứ ngưng được nhiều nhất có thể. 

Để cơn lũ sẽ nhỏ đi nhiều nhất có thể. 

Và nó không phải là nhiệm vụ. 

Nó là điều chúng ta phải làm vậy thôi. 

Làm một người tử tế. 

Làm những điều tốt đẹp nhất có thể làm được. 

Phải không khi chúng ta đều cần thấy điều tốt đẹp trong đời này?


Thứ Ba, 14 tháng 11, 2023

KINH THÁNH NÓI GÌ VỀ MẠNG XÃ HỘI?


Kinh Thánh là câu chuyện có thật đằng sau những gì chúng ta tin, là cách chính để học biết về tính cách của Thiên Chúa và là kim chỉ nam cho cuộc sống chúng ta. 

Nhưng Kinh Thánh không nói trực tiếp về việc sử dụng mạng xã hội, điều mà nhiều người trong chúng ta ước mong có. 

Tuy nhiên, Kinh Thánh cho biết chúng ta nên cư xử như thế nào, đối xử với người khác ra sao, và làm thế nào để phản chiếu hình ảnh Đức Kitô trong thế gian. 

Mặc dù Facebook, hay Instagram không bao giờ được nhắc đến trong Kinh Thánh, nhưng tất cả lời dạy đều áp dụng cho cách chúng ta sử dụng mạng xã hội.

Chúa Giêsu dạy rằng chúng ta là muối và ánh sáng của thế gian (Mt 5:13–16). Nhưng, nếu muối mất mặn đi thì trở nên vô giá trị, và ngọn đèn là để dùng, không phải để che giấu đi. Tương tự như vậy, thông tin cá nhân và cách chúng ta tương tác trên mạng xã hội cũng phải chiếu ánh sáng của Đức Kitô vào cuộc sống của những người xung quanh cũng như phải sống động và mặn mà. 

Thánh Phaolô dạy trong Philipphê 4:8 rằng chúng ta phải suy nghĩ về những điều chân thật, đáng trọng, công chính, thanh sạch, đáng yêu chuộng, đáng biểu dương, đức hạnh và đáng được khen ngợi. Câu Kinh Thánh này nên là kim chỉ nam của chúng ta không chỉ về cách sử dụng mạng xã hội mà còn về những thứ chúng ta đăng và tương tác với bài đăng của người khác.

Nếu chúng ta muốn thấy nhiều điều tốt trên mạng xã hội, chúng ta cần phải thúc đẩy điều đó.

Đôi khi có cảm giác như Kinh Thánh không đề cập đến tất cả các vấn đề hiện đại mà chúng ta phải đối mặt. Nếu tìm kiếm từ nhanh trong ứng dụng Kinh Thánh về “mạng xã hội” hoặc “Facebook” hay “Instagram” thì không kết quả nào cả. Nhưng Kinh Thánh vượt thời gian và áp dụng cho mọi khía cạnh trong cuộc sống của chúng ta - bao gồm cả mạng xã hội. Hãy để Lời Kinh thánh giúp chúng ta hiểu được cách sử dụng tài khoản mạng xã hội của mình.