Thứ Ba, 30 tháng 5, 2017

DÒNG ANH EM GIẢNG THUYẾT (DÒNG ĐA MINH)


1. CHÂN DUNG VỊ SÁNG LẬP


Cuối thế kỷ XII, một nạn đói xảy ra ở Palencia, Tây Ban Nha. Chứng kiến nhiều người nghèo chết vì thiếu lương thực, một chàng sinh viên thần học đã đem bán hết sách vở, là thứ quý giá nhất của mình, để cứu giúp những số phận đau thương. “Làm sao tôi có thể học trên những tấm da chết trong khi người ta chết đói ?” Chàng sinh viên tốt bụng ấy tên Domingo de Guzmán (tiếng Việt quen gọi là Đa Minh), chào đời tại làng Caleruega, Tây Ban Nha vào năm 1170.
Lên bảy tuổi cậu Đa Minh được gửi học với cậu của mình là một linh mục. Hoàn tất chương trình thần học rồi được thụ phong linh mục, cha Đa Minh đã gia nhập Kinh sĩ đoàn của nhà thờ chính toà Giáo phận Osma, Tây Ban Nha. Chính tại đây, trong đời sống chiêm niệm của cộng đoàn kinh sĩ, cha Đa Minh nhận ra ơn gọi riêng của mình là cầu nguyện cho các tội nhân, cho những người nghèo và những người đau khổ.
Năm 1203, nhân chuyến tháp tùng đức cha Diego, Giám mục Osma công du đến miền Bắc Âu, cha Đa Minh gặp một chủ quán trọ theo lạc giáo Cathares. Nhóm lạc giáo này chủ trương sống triệt để tinh thần khó nghèo Tin Mừng, nhưng đi đến quá khích là coi thường thân xác và đối nghịch với Giáo hội. Ngọn lửa nhiệt tâm với ơn cứu độ các linh hồn trong chiêm niệm giờ đây bừng cháy, cha Đa Minh thức suốt đêm tranh luận với người chủ quán. Cha đã thuyết phục thành công người này trở lại với đức tin Công giáo. Cuộc gặp gỡ và hoán cải có tính ngôn sứ này đã gợi hứng cho cha Đa Minh ý tưởng thành lập nhóm giảng thuyết.
Đức cha Diego và cha Đa Minh, cùng với sự cộng tác của một số tu sĩ Xitô, noi gương các thánh tông đồ thuở xưa : đi bộ từng hai người một, rao giảng Tin Mừng cho những người lạc giáo. Để duy trì cuộc chiến vì đức tin này, thì cần phải trang bị “vũ khí thiêng liêng”, đó là lời cầu nguyện. Năm 1206, cha Đa Minh quy tụ một số thiếu nữ, phần lớn là con cái của nhóm lạc giáo đã được người cảm hoá, và thành lập Đan viện nữ Đa Minh đầu tiên ở Prouilhe, Pháp.
Thời gian đầu, cha Đa Minh giảng thuyết dưới quyền Đức cha Diego. Năm 1207, Đức giám mục qua đời; cha Đa Minh “đơn thương độc mã”, tiếp tục giảng thuyết tại Carcassonne, Pháp, nơi lạc giáo đang hoành hành. Cho đến năm 1215, có hai anh em ao ước được chia sẻ với cha Đa Minh niềm đam mê giảng thuyết vì “cứu độ các linh hồn”. Cộng đoàn Anh em Đa Minh giảng thuyết đầu tiên ra đời ở Toulouse, với sự chấp thuận của đức cha Foulques, giám mục Toulouse.
Tại công đồng Laterano IV (1215), cha Đa Minh và Đức cha Foulques đệ trình Đức thánh cha Innocente III kế hoạch thành lập một dòng tu mới. Ngày 22 tháng 12 năm 1216, cộng đoàn anh em giảng thuyết do thánh Đa Minh thành lập được Đức thánh cha Honorio III châu phê. Kể từ đó, những anh em của thánh Đa Minh được gọi là “Dòng Anh Em Giảng Thuyết” (Ordo Fratrum Praedicatorum, viết tắt là O.P.)
Dòng thành lập chưa được bao lâu, cha Đa Minh tụ họp mười sáu anh em tiên khởi tại Prouilhe và sai từng hai người một đến các thành phố lớn ở châu Âu để giảng thuyết, học hành và thành lập các tu viện. Cha tin tưởng ủy thác sứ vụ cho các anh em của mình với những lời lẽ khích lệ: “Hạt giống tốt sinh hoa trái khi được phát tán, bằng không sẽ thối rữa nếu chất đống với nhau.” Hôm ấy là lễ Mông Triệu, ngày 15 tháng 8 năm 1217, quen gọi là ngày lễ Ngũ tuần của Dòng.
Tổng hội đầu tiên năm 1220 và tổng hội năm sau đó nhóm họp tại Bologna, Ý đã xác định những nét chính yếu làm nền tảng cho hiến pháp tiên khởi của Dòng. Sau tổng hội thứ hai, cha Đa Minh lâm trọng bệnh và qua đời tại Bolonia vào ngày 6 tháng 8 năm 1221. Người được Đức thánh cha Gregorio IX tôn phong hiển thánh năm 1234, và được Giáo hội mừng kính vào ngày 8 tháng 8 hàng năm.

2. CỘNG ĐOÀN CÁC ANH EM CHIÊM NIỆM VÀ GIẢNG THUYẾT

Dòng Anh Em Giảng Thuyết, như chính tên gọi của Dòng, là cộng đoàn các anh em nhận lãnh sứ vụ giảng thuyết – “công bố Lời Thiên Chúa, loan truyền danh Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, trên toàn thế giới.” Để chu toàn nhiệm vụ này, cha Đa Minh đã đề ra cho anh em một lối sống, một linh đạo, đó là anh em “ở đâu cũng phải sống chính trực và đạo đức như những người khao khát ơn cứu độ của mình và của những người khác, như những con người của Tin Mừng, theo chân Đấng Cứu độ, chỉ nói với Thiên Chúa hay về Thiên Chúa, với mình hoặc cho tha nhân.

Thánh lễ Tuyên khấn lại (8.8.2016), tại Nhà nguyện Tu viện Mân Côi, Gò Vấp
Để làm rõ ý hướng của cha Đa Minh, Hiến pháp Dòng gọi nếp sống này là nếp sống của các Tông đồ theo thể thức thánh Đa Minh cưu mang, tức là “chung sống đồng tâm nhất trí, trung thành tuân giữ các lời khuyên tin mừng, sốt sắng cử hành chung phụng vụ, đặc biệt là việc cử hành Thánh Thể và kinh thần vụ cũng như việc cầu nguyện, chuyên cần học hỏi, kiên tâm tuân giữ nếp sống tu trì.” Những việc này một khi được chu toàn không những làm tôn vinh Thiên Chúa và thánh hóa bản thân, mà còn chuẩn bị và thúc đẩy việc giảng thuyết nhằm phục vụ ơn cứu độ con người. Những yếu tố này của đời sống Đa Minh được hài hoà và quân bình trong một tập thể nhờ một cách thức quản trị mang tính cộng đoàn, theo đó các thành phần có thể hợp tác một cách hữu cơ và thích hợp trong việc theo đuổi mục đích riêng của Dòng.
Những nét đặc trưng trên đây của linh đạo Đa Minh không chỉ giới hạn trong Dòng Anh Em Giảng Thuyết, mà còn được mở rộng đến các chị em đan sĩ Đa Minh, chị em Đa Minh hoạt động tông đồ và Huynh đoàn Giáo dân Đa Minh (dòng Ba). Chính sự góp mặt của các thành phần này làm nên sự phong phú và tính đa dạng của linh đạo Đa Minh.

3. TÁM TRĂM NĂM TRONG LÒNG GIÁO HỘI VÀ THẾ GIỚI

Ngay sau khi các anh em tiên khởi được phân tán đến những thành phố lớn của châu Âu để rao giảng và lập tu viện, Dòng tăng trưởng một cách kỳ diệu cả về số lượng lẫn chất lượng. Đã có rất nhiều ơn gọi đến với Dòng. Từ Paris, Bologna và Roma, Dòng nhanh chóng lan rộng đến các thành phố lớn khác ở Đông Âu (Ba Lan, Tiếp Khắc, Hungary, v.v.). Theo những tài liệu thống kê vào cuối thế kỷ XIII, Dòng có hơn 12.600 tu sĩ.
Làm thần học…
Thời kỳ đầu, hoạt động chính của anh em Đa Minh chủ yếu là ở những đại học lớn của châu Âu với tư cách là giáo sư thần học và giảng sư ở nhiều nhà thờ chính toà. Ngoài những nhà thần học lỗi lạc thuộc Dòng Đa Minh như thánh Tôma Aquinô và thánh Anbetô Cả, cần phải kể đến cha Vincent de Beauvais, một nhà bách khoa toàn thư của thời Trung cổ, những văn sĩ thần bí lừng danh như tôn sư Eckhart, Johannes Tauler và Chân Phước Henry Suso, đến nay tư tưởng của của các vị này vẫn tiếp tục được nghiên cứu. Ngoài ra, Dòng còn có một nhà thần bí đặc biệt là thánh Catarina Siena. Không chỉ bằng ngôn ngữ triết học, thánh khoa và thần bí, anh em Đa Minh còn diễn tả chân lý đức tin bằng biểu tượng của nghệ thuật tâm linh, như những bức hoạ của Chân phước Fra Angelico, Fra Bartolomeo, v.v..
Đầu thế kỷ XVI, sự xuất hiện và lan rộng của Phong trào Cải cách Tin lành đã tác động đến nề nếp tu trì và sứ vụ của Dòng. Nhưng không bao lâu, công đồng Trentô nhóm họp, anh em đã nhanh chóng khẳng định được sứ mạng thần học và quản trị của mình trong Giáo hội. Khoảng 200 tu sĩ Đa Minh (Tổng giám mục, Giám mục, Đại diện Giám mục, thần học gia) đã tham gia Công đồng. Học thuyết thánh Tôma tìm được vị trí xứng đáng khi được Công đồng dùng để khai triển giáo lý của Hội thánh. Sau Công đồng, hai tu sĩ Đa Minh được bầu làm Giáo hoàng, đặc biệt thánh Giáo hoàng Piô V đã đóng góp rất nhiều trong việc áp dụng giáo lý công đồng vào đời sống Giáo hội.
Cách mạng Pháp (1789) bùng nổ, lại một lần nữa, Dòng phải đương đầu với những khủng hoảng kéo dài. Giữa thế kỷ XIX, cha Henri Lacordaire – văn sĩ và nhà giảng thuyết nổi tiếng ở nhà thờ Đức Bà Paris – đã gia nhập Dòng. Nhờ sự khôn ngoan và năng lực xuất sắc trong việc giảng thuyết, cha đã thu hút được nhiều ơn gọi cho Dòng. Bên cạnh đó cũng phải kể đến khả năng lãnh đạo tài ba của Bề trên Tổng quyền Vincent Jandel đã giúp cho Dòng vượt qua được giai đoạn khó khăn.
Trào lưu Ánh sáng ra đời, cùng với sự phát triển của khoa học, đã tác động đến lối suy tư, khiến người ta đặt lại mọi vấn đề dưới ánh sáng khoa học, kể cả những vấn đề Kinh Thánh và thần học. Nhận thấy khoa học nhân văn, lịch sử, khảo cứu, v.v., giúp ích nhiều cho việc nghiên cứu Kinh Thánh, cha Marie-Joseph Lagrange đã thành lập Trường Thánh Kinh Giêrusalem vào năm 1890, mở đường cho khoa chú giải Thánh kinh Công giáo hiện đại.
Trong thế kỷ XX, Dòng tiếp tục đóng góp cho Giáo hội nhiều nhà thần học danh tiếng. Cha Yves-Marie Congar, Marie-Dominique Chenu, Edward Schillebeeckx là những chuyên viên quan trọng của Công đồng Vatican II. Cuối thế kỷ XX và đầu XXI, cha Timothy Radcliffe, cựu Tổng quyền của Dòng (1992-2001) cũng là một khuôn mặt nổi bật. Ngài đã xuất bản một số tác phẩm có giá trị và được mời thuyết trình nhiều nơi.
…và truyền giáo
Cùng với nhiệm vụ thần học tại các trung tâm Châu Âu, các anh em Đa Minh còn chú trọng đến sứ mạng truyền giáo. Có thể kể đến một vài nhà truyền giáo nổi tiếng ngay sau thời thánh Đa Minh như thánh Giaxintô (+1257), vị tông đồ của Bắc Âu và Đông Âu, thánh Vinh Sơn Phêriô (+1419), được mệnh danh là “Ông trạng phép lạ.” Cuối thế kỷ XV, nhờ sự phát triển của ngành hàng hải, anh em Đa Minh đặc biệt hướng đến các hoạt động truyền giáo ở những châu lục xa xôi.
Trong số những nhà truyền giáo tiên phong của châu Mỹ, cha Bartolomeo de las Casas, OP. (+1566) – vị tông đồ của thổ dân – là gương mặt nổi bật nhất và xứng đáng được gọi là cha đẻ của nhân quyền vì là người đầu tiên dấn thân trong cuộc đấu tranh đòi công lý và quyền lợi cho thổ dân châu Mỹ. Rồi cũng phải kể đến thánh Máctinô Porét (+1639). Đức Gioan XXIII, trong ngày lễ phong thánh, đã gọi Người là “mẫu gương sáng ngời về đức bác ái.
Tại Châu Á, một Tỉnh dòng Truyền giáo (Tỉnh dòng Mân Côi, gốc Tây Ban Nha) được thành lập năm 1582 tại Philippines. Từ đây các tu sĩ Đa Minh đem ánh sáng Tin Mừng đến các nước Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản, v.v.. Công cuộc truyền giáo tại Châu Á đặc biệt gắn liền với những chứng tích của các anh hùng tử đạo. Chỉ riêng Tỉnh dòng Mân Côi đã có 57 nhà truyền giáo tại Châu Á (phần lớn ở Việt Nam và Nhật Bản) được phong hiển thánh và chân phước, ấy là chưa kể 42 vị khác là Huynh đoàn Giáo dân Đa Minh.

4. BỐN TRĂM NĂM HIỆN DIỆN TẠI VIỆT NAM

Thời các nhà truyền giáo…
Giữa thế kỷ XVI, các tu sĩ Đa Minh đã có những thăm dò đầu tiên cho sứ vụ truyền giáo tại Việt Nam. Năm 1550, nhà truyền giáo Gaspar Santa Cruz (Bồ Đào Nha) từng đặt chân đến Hà Tiên. Từ năm 1596 đến năm 1629, các nhà truyền giáo Đa Minh thuộc Tỉnh dòng Mân Côi, theo lời mời của các vua hoặc quan đại thần Chân Lạp, đã thực hiện bốn chuyến truyền giáo đến miền Nam Việt Nam. Những địa danh ghi dấu chân các ngài là Châu Đốc, Cửu Long, kinh thành Lovea En, Thuận hóa và cửa Hàn, v.v..
Năm 1676, nhận lời mời của đức cha Lambert de la Motte, Tỉnh dòng Mân Côi bắt đầu chính thức sứ mạng truyền giáo ở Đàng Ngoài. Kể từ đó, đã có liên tục 243 thừa sai thuộc Tỉnh dòng này xin chọn Việt Nam làm quê hương thứ hai.
Địa phận Đông Đàng Ngoài được thành lập năm 1679. Giám mục Đa Minh đầu tiên là Đức cha Lezoli Cao (1698-1706). Kể từ năm 1756, Dòng hoàn toàn đặc trách khu vực tả ngạn sông Hồng, nay là 5 giáo phận : Gp. Hải Phòng (1679), Gp. Bùi Chu (1848), Gp. Bắc Ninh (1883), Gp. Thái Bình (1936) và Gp. Lạng Sơn (1939).
Năm 1738, hai tu sĩ Đa Minh Việt Nam tiên khởi tuyên khấn lần đầu. Từ thời điểm này cho đến năm 1919, con số anh em Đa Minh Việt Nam là 135 tu sĩ (134 linh mục, 1 thầy bốn chức). Sau thời bách hại, đặc biệt từ năm 1934, khi tập viện Đa Minh được thiết lập tại Quần Phương, Bùi Chu, số tu sĩ Đa Minh Việt Nam tăng đáng kể mỗi năm chuẩn bị cho một tỉnh dòng mới được thành lập vào năm 1967.
Từ năm 1902, các tu sĩ Đa Minh thuộc Tỉnh dòng Lyon (Pháp) cùng tham gia sứ vụ tại Việt Nam. Các vị hoạt động tại Hà Nội với tu xá Cartouches và Câu lạc bộ Sinh viên Phục hưng, và phụ trách truyền giáo tại Cao Bằng – Lạng Sơn từ năm 1914. Số thừa sai Tỉnh dòng Lyon đến Việt Nam là 42 vị, trong đó có 2 giám mục.
Gia sản lớn các vị thừa sai để lại cho Giáo hội tại Việt Nam là lòng hăng say, sự nhiệt thành và hy sinh. Công việc tuy âm thầm, nhưng ảnh hưởng sâu đậm với Giáo Hội Việt Nam, đó là cách tổ chức giáo xứ tại những giáo phận Dòng. Đức Pio IX không ngần ngại gọi đó là những giáo phận gương mẫu. Ngoài ra, các vị cũng thành lập các đoàn thể công giáo tiến hành, đặc biệt là Hội Chị Em Đa Minh hãm mình (1715) – tiền thân của các Hội dòng nữ Đa Minh, Dòng Ba Đa Minh, Hội Mân Côi tại nhiều nơi. Ngoài ra còn có hội dây thánh Tôma, hội Kính Danh Chúa Giêsu và hội Imelda (dành cho trẻ em rước lễ lần đầu).
Đặc biệt, cùng với Giáo Hội Việt Nam, những trang sử đậm nét nhất của Dòng Đa Minh trên đất Việt là bản trường ca được viết bằng máu đào của những con người hào hùng, sẵn sàng hiến dâng mạng sống mình cho Thiên Chúa và tha nhân. Trong danh sách 117 thánh tử đạo Việt Nam, có 38 vị thuộc Gia đình Đa Minh, gồm 6 giám mục, 16 linh mục Dòng Nhất, 3 linh mục Dòng Ba, 6 thày giảng và 7 huynh đoàn giáo dân. Ngoài ra, còn 118 đấng Đáng kính đang chờ được suy tôn chân phước, và hàng trăm vị khác đang được điều tra.
….đến thành lập Tỉnh Dòng Nữ Vương Các Thánh Tử Đạo, Việt Nam (1967)
Biến cố 1954 đã đưa hầu hết tu sĩ Đa Minh đến phục vụ tại các giáo phận miền Nam. Năm 1956, Phụ tỉnh có vị bề trên người Việt đầu tiên là cha chính Giuse Nguyễn tri Ân (1956-1964). Ngày 18 tháng 03 năm 1967, Tỉnh dòng Đa Minh được thành lập tại Việt Nam với thánh hiệu “Nữ Vương Các Thánh Tử Đạo”. Số tu sĩ của tân Tỉnh dòng bấy giờ là 98 người. Vị giám tỉnh tiên khởi là cha Gioakim Nguyễn Văn Liêm (1967-1981).
Vào thời điểm trên, các tu sĩ Đa Minh thuộc Phụ tỉnh Lyon cũng vào Miền Nam và lập tu viện tại đường Tú Xương, Sài Gòn. Ngày 22/05/1999, Cha Timothy Radcliffe, Tổng quyền Dòng Đa Minh, đã ký nghị định hợp nhất Phụ tỉnh Lyon (sau là Phụ tỉnh Pháp) với Tỉnh Dòng Nữ Vương Các Thánh Tử Đạo, Việt Nam.
Thống kê năm 2014, Tỉnh dòng có 368 tu sĩ (1 Giám mục, 233 Linh mục, 16 Phó tế, 34 tư giáo khấn trọng, 47 tư giáo khấn đơn, 32 trợ sĩ khấn trọng, 5 trợ sĩ khấn đơn và 22 tập sinh,. Trên 75 tu sĩ đang cư trú, làm việc và học hành ở nước ngoài. Tại Việt Nam, Tỉnh dòng có 5 tu viện, 3 tu xá, phụ trách 31 giáo xứ; ở hải ngoại, có 1 Phụ tỉnh đặt trụ sở tại Calgary, Canada với 1 tu viện, 2 tu xá (1 tại Houston, Hoa Kỳ) và phụ trách 9 giáo xứ.

5. CÁC HOẠT ĐỘNG SỨ VỤ HIỆN NAY

Về công tác đào tạo thần học, năm 1967, Dòng khánh thành Học viện Đa Minh Thủ Đức để đào tạo linh mục tương lai cho Dòng. Đến năm 1971, Học viện được chọn làm Học viện Liên Dòng. Khi học viện bị tiếp quản (1978), công tác này vẫn được tiếp tục, tuy âm thầm hơn. Hiện nay Trung Tâm Học Vấn Đa Minh, Gò Vấp, sau khi sáp nhập với Đại Học thánh Tôma, Manila, đã được quyền cấp văn bằng Cử nhân Thần học.
Bên cạnh đó, các tu sĩ Đa Minh cũng góp phần cho việc khai sinh và phát triển các Học viện Thần học Liên dòng Nam và Nữ; giảng dạy tại các Đại chủng viện Hà Nội, Sài Gòn, Xuân Lộc; biên soạn các giáo trình, tài liệu thần học, dịch thuật Kinh thánh và các văn kiện Tòa thánh, v.v.; biên tập nội san “Chia Sẻ” của liên tu sĩ thành phố HCM và tập san “Thời sự Thần học”.
Tĩnh tâm Tỉnh dòng 2016
Nhà nguyện Trung tâm Mục vụ Máctinô, Hố Nai
Về mục vụ, hiện nay các tu viện tại Thành phố đều gắn liền với các hoạt động mục vụ của giáo xứ do tu viện đảm trách. Tại Hố Nai, Đền thánh Máctinô là trung tâm hành hương cho nhiều tín hữu với các hoạt động mục vụ thánh lễ, giải tội, học hỏi giáo lý, bác ái, v.v.. Tỉnh dòng cũng tiếp tục phục vụ tại các giáo xứ gốc di cư như Ngọc Đồng, Thánh Tâm (Hố Nai), Lạc Lâm (Đơn Dương), Cao Xá (Tây Ninh). Đặc biệt, một công việc mục vụ khác cũng chiếm khá nhiều nhân lực của Tỉnh dòng là tổ chức và huấn luyện cho các Huynh đoàn Giáo dân Đa Minh với con số gần 100 ngàn đoàn viên tại 16 giáo phận. Ngoài ra, còn có nhiều tu sĩ dấn thân mục vụ cho các nhóm giáo chức, sinh viên, di dân, khuyết tật, HIV, v.v..
Về sứ vụ truyền giáo, nhờ gia tăng số tu sĩ, gần đây Tỉnh dòng mở rộng cộng tác truyền giáo tại nhiều giáo phận như : Hưng Hóa, Lạng Sơn, Bắc Ninh, Hải Phòng, Bùi Chu, Thái Bình, Vinh, Đà Nẵng, Kontum, Ban Mê Thuột và Cần Thơ. Anh em Đa Minh Việt Nam cũng đang thử nghiệm hiện diện tại Hàn Quốc, Đài Loan, Thái Lan, Lào và một số quốc gia trong khu vực.

6. THÔNG TIN CẦN THIẾT

DÒNG ANH EM GIẢNG THUYẾT
Bề trên Tổng quyền : Lm. Bruno Cadoré, O.P.
Trụ sở : Convento Santa Sabina (Aventino)
Piazza Pietro d’Illiria, 1
00153 Roma – Italia
Tel : (3906) 579 401
Fax : (3906) 575 0675
Website : http://curia.op.org
TỈNH DÒNG NỮ VƯƠNG CÁC THÁNH TỬ ĐẠO, VIỆT NAM
(TỈNH DÒNG ĐA MINH VIỆT NAM)Bổn mạng: Đức Mẹ sầu bi (15/09)
Giám tỉnh : Lm. Giuse Nguyễn Đức Hoà, O.P.
Trụ sở : 229 Võ Thị Sáu, Phường 7, Quận 3, Tp. HCM
Đt : (08) 3932 1881 ; Fax : (08) 3932 1880
Website : http://www.daminhvn.net
THỈNH VIỆN ĐA MINH, TAM HÀ – Nơi đón nhận ứng sinh tìm hiểu ơn gọiBổn mạng : Thánh Gioan Tông đồ
Phụ trách ơn gọi : Lm. Phêrô Nguyễn Thế Truyền, O.P.
70/1 Tổ 1, KP. Bình Đường 3, P. An Bình,
Tx. Dĩ An, Tỉnh Bình Dương
Đt : (08) 3897 7962 (Tp. HCM)
Email: thinhviendaminh@gmail.com
Website: http://www.thinhviendaminh.net


Truyện cười dòng Tên 3

 Một tu sĩ Dòng Âugutinô, một tu sĩ Dòng Phan Sinh, một tu sĩ Dòng Tên chết và lên trời. Chúa Giêsu hỏi mỗi người:

Nếu các con có thể về lại trần gian thì các con sẽ nhắn gì cho người khác qua cuộc sống của các con?

Tu sĩ Dòng Âugutinô suy nghĩ một lát và trả lời:

Dạ, dưới trần thế có quá nhiều tội. Nếu con có thể trở về trần thế, con sẽ cố gắng làm sao để người ta không phạm tội nữa.

Tu sĩ Dòng Phan Sinh cũng suy nghĩ và trả lời:

Dạ, dưới trần thế có quá nhiều người nghèo. Nếu con có thể trở về trần thế, con sẽ thuyết phục giáo dân chia sẻ của cải của mình với người nghèo.

Tu sĩ Dòng Tên nhìn Chúa Giêsu và trả lời ngay:

Nếu con có thể trở về trần thế, con sẽ đi kiếm một bác sĩ khác.
________
 Trích sách: Cứ việc giễu các tu sĩ Dòng Tên, Hài hước và thiêng liêng. Nicolaas Sintobin, s.j. Nxb. Fidélité, Namur 2016

Truyện cười Dòng Tên 2

Một sinh viên hỏi một cha Dòng Tên, có đúng là khi nào tu sĩ Dòng Tên cũng trả lời một câu hỏi bằng một câu hỏi khác không. Vị tu sĩ nhìn chăm anh thanh niên trẻ và trả lời:

– Con muốn nói gì?
_______
Trích sách: Cứ việc giễu các tu sĩ Dòng Tên, Hài hước và thiêng liêng. Nicolaas Sintobin, s.j. Nxb. Fidélité, Namur 2016

Truyện cười Dòng Tên 1

Có một người đến gặp một cha Dòng Phan Sinh xin cha làm tuần cửu nhật để được thắng chiếc xe Lexus trong vụ Xổ số quốc gia.

– Lexus là gì?

– Là một chiếc xe sang trọng.

– Chúa lòng lành! Thánh Phanxicô sẽ nghĩ đây là đi ngược với lời khấn khó nghèo của ngài! Vậy, cha rất tiếc không có chuyện cha cầu nguyện cho việc này được.

Người đó đến tìm một tu sĩ Dòng Đa Minh

– Xin cha giúp con làm tuần cửu nhật để con thắng chiếc xe Lexus.

– Lexus là gì?

– Là một chiếc xe sang trọng.

– Chúa lòng lành! Thánh Tôma Aquinô sẽ cảnh cáo, điều này đi ngược với tình yêu cho của cải ở thế gian này. Vậy, cha rất tiếc không có chuyện cha cầu nguyện cho việc này được.

Thất vọng, cuối cùng người này đến tìm gặp một tu sĩ Dòng Tên:

– Xin cha làm ơn làm phước giúp con làm tuần cửu nhật để con thắng chiếc xe Lexus.

– Tuần cửu nhật là gì? 
________
trích sách: Cứ việc giễu các tu sĩ Dòng Tên, Hài hước và thiêng liêng. Nicolaas Sintobin, s.j. Nxb. Fidélité, Namur 2016

Thứ Năm, 18 tháng 5, 2017

Bức thư từ Thầy Hiệu Trưởng.

Bức thư của một hiệu trưởng tại Singapore khiến các bậc phụ huynh phải suy ngẫm

"Các bậc phụ huynh kính mến,

Kỳ thi của các em học sinh đang tới gần. Chúng tôi biết rằng các vị đều đang mong cho con mình sẽ giành được kết quả cao trong kỳ thi này.

Tuy nhiên, xin hãy nhớ rằng, trong số các em, những người có mặt tại kỳ thi, có người sẽ là một nghệ sĩ, người không cần hiểu sâu về Toán.

Có người sẽ là một doanh nhân, người không cần phải quá quan tâm đến lịch sử hay văn học Anh.

Có người sẽ là một nhạc sĩ, người mà với họ, môn Hoá học sẽ chẳng có ý nghĩa gì nhiều.

Có người sẽ là một vận động viên, người mà việc rèn luyện thể chất sẽ quan trọng hơn là môn Vật lý, giống như vận động viên Schooling của chúng ta.

Nếu con bạn đạt điểm cao, điều đó thật là tuyệt vời. Nhưng nếu con không thể, xin đừng làm mất đi sự tự tin và nhân phẩm của con.

Hãy nói với con rằng: ổn thôi mà, đó chỉ là một kỳ thi. Con được sinh ra trên đời cho những điều lớn lao nhiều hơn thế.

Hãy nói với con rằng, dù điểm số của con là bao nhiêu, cha mẹ vẫn yêu con và không hề phán xét.

Xin hãy làm như vậy, và nếu các vị thực hiện điều đó, hãy chờ xem con mình chinh phục thế giới. Một kỳ thi hay một điểm số kém sẽ không thể gạt bỏ đi những ước mơ và tài năng bên trong của các con.

Và cuối cùng, xin đừng nghĩ rằng chỉ có kỹ sư hay bác sĩ mới là những người hạnh phúc duy nhất trên thế giới này.

Trân trọng,
Hiệu trưởng".

Cuộc đời còn dài ở phía trước nhưng năm tháng tuổi thơ rồi sẽ qua đi. Hãy để các em sống đúng với màu sắc của mình, những thứ điểm tô cho cuộc sống tươi đẹp.

Theo: Trí Thức Trẻ


Đi không chỉ để trở về tay trắng, để túi tiền vơi đi...

Trong thời buổi công nghệ hiện đại, người ta so kè với nhau từng chuyến đi trên Facebook, đọ nhau từng bức ảnh lung linh được gột rửa qua bao lớp filter Instagram. Mỗi hành trình du lịch, à có lẽ tôi chỉ nên dùng từ "chuyến đi" mà thôi, người ta lại kể xem đã tiêu bao nhiêu tiền, mua sắm được bao nhiêu thứ, có góc nào chụp ảnh đẹp mới lạ không...
Thế nhưng, tuyệt nhiên chẳng ai hỏi nhau xem, có học được bài học gì mới không, khi đó mới chính là cốt lõi của chủ nghĩa xê dịch: học hỏi và mở mang cuộc sống.
Đi không chỉ để trở về tay trắng, để túi tiền vơi đi, tim đầy nắng, tâm hồn rộng mở và đón nhận những câu chuyện mới, bài học mới của cuộc đời...

P/s:
Những chuyến đi gần đây, làm tôi nhớ người bạn đồng hành Numita ngày xưa quá...!!


Thứ Hai, 15 tháng 5, 2017

Hạnh phúc ở đâu?


Đại hội các con quỷ tập hợp nhau lại để lên kế hoạch làm hại con người. Một con quỷ lên tiếng: "Chúng ta nên giấu cái gì quý giá của con người. Nhưng mà cái đó là cái gì?"
Một con quỷ khác lên tiếng: "Chúng ta nên giấu hạnh phúc của con người. Không có nó, ngày đêm con người sẽ phải khổ sở. Nhưng vấn đề là chúng ta sẽ giấu hạnh phúc nơi nào mà con người không thể tìm thấy được."

Một con quỷ cho ý kiến: "Chúng ta sẽ quẳng hạnh phúc lên đỉnh núi cao nhất thế giới."
Con con quỷ khác phản đối: "Con người rất khoẻ mạnh, chuyện trèo lên đỉnh núi đối với họ không có gì là khó khăn."
"Vậy thì chúng ta sẽ đem hạnh phúc ném xuống đáy biển sâu."
"Không được, con người rất tò mò. Họ sẽ chế tạo ra những con tàu hiện đại để đi xuống tận đáy biển. Rồi tất cả mọi người sẽ biết."
Một con quỷ trẻ có ý kiến: "Hay là chúng ta đem giấu hạnh phúc ở một hành tinh khác."
Con quỷ già phản đối: "Không được, con người rất thông minh. Càng ngày họ càng thám hiểm nhiều hành tinh khác đấy thôi."
Suy nghĩ hồi lâu, có một con quỷ già lụ khụ lên tiếng: "Tôi biết phải giấu hạnh phúc của con người ở đâu rồi. Hãy giấu nó ở chính bên trong con người. Đa số con người đi tìm hạnh phúc ở khắp chốn, khắp nơi, và bao giờ họ cũng thấy người khác hạnh phúc hơn mình; còn bản thân họ thì họ chẳng bao giờ quan tâm. Giấu nó ở đó thì con người không bao giờ tìm thấy hạnh phúc cả!!!"

(sưu tầm)

Thứ Ba, 9 tháng 5, 2017

làm rơi dần chữ tình...

Kết quả hình ảnh cho tình bạn


Những niềm vui trong cuộc đời dường như vẫn lẫn lộn giữa những giá trị thực của nó, có những niềm vui thoáng qua, nhất thời ta đeo đuổi để rồi nuối tiếc, có những niềm vui thường nhật và bền vững ta lại bỏ qua…có những tầm thường, ta tưởng rằng quí giá, luôn nâng niu với lòng trang trọng…để rồi hối hận, những giản dị, đơn sơ nhưng đáng quí vô giá ta ngoảnh mặt thờ ơ …rồi ân hận muộn màng…
Cả một đời người có thể cho tất cả những yêu thương duy nhất của chính mình đến những người mình yêu thương nhất, song chưa hẳn họ có thể nhận ra và không dễ gì mà đáp trả, cuộc sống hối hả, đa đoan chung quanh cứ làm rơi dần chữ tình. ..

Thứ Tư, 3 tháng 5, 2017

Dấu lặng...


Bạn đã bao giờ thấy tầm quan trọng của dấu lặng trong âm nhạc hay chưa? Có thể chúng ta rất ít khi để ý đến nó, nhưng ta thử nghĩ xem nếu một bản nhạc mà không có dấu lặng thử hỏi bản nhạc đó có hay không? Nếu một bản nhạc không có dấu lặng, chúng ta sẽ chẳng bao giờ nghe được tiếng vọng của thanh âm, và những ngân nga của một giai điệu du dương. Chúng ta cứ hát một hơi dài, nó vừa không hay vừa không có điểm nhấn, không để cho người hát có sức để hát tiếp. Vì thế, tác giả Vũ Uyên đã từng nói: “Khi bạn thưởng thức âm nhạc, bạn cũng phải học cách thưởng thức những khoảng lặng”. Một bài văn cũng vậy, nó cũng phải có dấu chấm, dấu phẩy thì câu văn mới trọn vẹn và làm nên một bài văn hoàn chỉnh.
Cuộc sống ngày hôm nay con người luôn tất bật với công ăn việc làm, đa phần cái gì cũng “ăn liền”, thử hỏi trong ngày sống của chúng ta có mấy lúc chúng ta để cho mình có những giây phút lặng. Điều đó cũng ảnh hưởng đến cả đời tu chúng ta nữa. Có lúc chúng ta thấy lặng chẳng có ích gì cho chúng ta cả. Nhưng bạn đã bao giờ khám phá ra ý nghĩa của sự lặng chưa?
 Lặng đưa con người ta về với con người thực của mình, về với cõi lòng của mình. Qua việc lặng chúng ta sẽ thấy con người mình rõ hơn với những “cơn sóng”, “sóng” có thể là “sóng” của tương quan của chúng ta với tha nhân, tương quan với Chúa, tương quan với muôn loài muôn vật. Qua những phút giây lặng chúng ta sẽ biết được những tương quan đó đã tốt đẹp chưa? Chúng ta cần chấn chỉnh lại điều gì cho phù hợp. Lặng mới giúp ta thực sự lắng nghe để thấu hiểu và đón nhận người khác một cách chân thực như chính họ, và giúp ta bước vào những mối tương quan bền vững hơn.“Người ta sẽ tin bạn không phải vì bạn nói nhiều, nhưng vì bạn biết thinh lặng để lắng nghe” (Paul Xardel).
 Giới trẻ rất thích động, có thể nói động là một sở thích và hình như không thể thiếu trong ngày sống. Cho nên các bạn luôn đeo headphone ở tai cả ngày mà không chán, và cứ thế volume vặn “max”. Nhiều phụ huynh đã phản ánh, vì chúng cứ đeo heaphone và không để ý gì đến ai cả, bố mẹ có sai bảo gì, có dặn dò gì chúng cũng chẳng thèm nghe. Điều đó làm các phụ huynh thật khó chịu. Các bạn sợ rằng khi lặng con người thật của mình sẽ lộ ra và mình phải đối diện với con người thật của mình, với những cái là của mình. Các bạn sợ phải thay đổi chúng. Lặng mình mới thấy con người của mình còn biết bao thiếu sót.
 Lặng để thưởng thức. Một vị truyền giáo được sai đến sống giữa những người thổ dân nghèo khó. Ngay hôm đầu hiện diện, vị truyền giáo đã cảm thương người dân nghèo ở đây vô cùng. Ngài tìm việc cho họ, xin nguồn trợ giúp để người dân được no đủ. Từ khi có vị truyền giáo, ngôi làng trở nên bớt hiu quạnh, dân chúng vui tươi hơn, hạnh phúc hơn. Nhìn thấy những thành quả gặt hái được, vị truyền giáo mỉm cười vui sướng.
Ngồi trong túp lều bằng lá đơn sơ, bao nhiêu dự án nâng cao đời sống người dân được hoạch định trong đầu óc ngài… Bỗng dưng, có tiếng bước chân sột soạt của ai đó. Trước cửa chợt hiện ra khuôn mặt sạm nắng, nhăn nheo của một thổ dân trong làng, ông ta giơ tay chào rồi nói lớn: “Ngày mai, tôi sẽ tặng cho cha một món quà, nhớ nhé!” Vị truyền giáo mỉm cười, gật đầu tỏ vẻ biết ơn và ngài bắt đầu tưởng tượng đến lũ chuột đồng sẽ được nhận ngày mai, như món quà tặng! Trời còn rất sớm, ánh bình minh mới le lói cuối chân trời.
Vị truyền giáo im lặng chiêm niệm về Thiên Chúa. “Soạt” tiếng động làm vị truyền giáo giật mình thảng thốt. Trên vách lá, lộ ra một lỗ hổng mới bị tay ai đó xé toạc. Chợt có tiếng người thổ dân ríu rít gọi: “Cha lại đây xem này! Vị truyền giáo đến gần lỗ hổng, ghé mắt nhìn qua, Ngài thấy một mặt trời rực rỡ chiếu sáng. “Tặng cha đó!” Người thổ dân nói và biến mất, nhanh như khi ông vừa xuất hiện. Vị truyền giáo lặng người đứng chiêm ngắm mặt trời rực hồng đang vẽ lên bầu trời những chuyển động đầu tiên rất linh thiêng, rất tinh khôi, và kỳ diệu.
Gần bảy mươi năm cuộc đời, chứng kiến khoảng hai mươi lăm ngàn lần bình minh lên, nhưng đây là lần đầu tiên vị truyền giáo biết ngây ngất trước quà tặng quá đi tuyệt vời của Thiên Chúa. Hoá ra những người thổ dân hạnh phúc hơn ông rất nhiều, vì họ “thưởng  thức” được biết bao quà tặng quý giá mà Tạo Hoá ban tặng hàng ngày. Từ đó vị truyền giáo trở nên trầm ngâm hơn, nụ cười ngài sâu lắng hơn. Vị truyền giáo nhận ra, những gì ông trao ban thực quá nhỏ bé.
Cuộc sống quanh ta có biết bao điều kỳ diệu. Ngay mỗi ngày sống của chúng ta đã là một phép lạ rồi. Cụ thể nhất là cơ thể của chúng ta, mỗi bộ phận với sự vận hành đều đặn, chính xác và liên kết hài hoà chặt chẽ với nhau trong suốt những năm tháng của đời người, cũng đủ chứng thực về sự kỳ diệu và độ tinh tế mà Đấng Tạo Hoá đặt để nơi con người. Cứ tưởng tượng chỉ một ngón tay đau khi thức dậy, một cú ngã bất ngờ, một cái hụt chân… đều có thể làm ta thay đổi toàn bộ cuộc sống và nhịp sinh hoạt. Lúc ấy, chúng ta sẽ thấy nguyên việc ta sống bình thường đã là một phép màu cả thể.
Rộng hơn, nhìn vào thiên nhiên, chúng ta thấy, thiên nhiên là cuốn sách tình yêu vĩ đại được Thiên Chúa “viết ra”, hầu nói cho con người biết về tình thương của Ngài dành cho họ. Nhưng trong thực tế, không phải tất cả chúng ta đều nhận ra sứ điệp yêu thương ấy của Thiên Chúa. Nhiều người chỉ biết nhìn vào những gì mình làm ra để tự thán phục và ca ngợi mình, còn mọi sự khác dù có lớn lao trong vũ trụ cũng là chuyện bình thường phải có, thậm chí là tầm thường. Họ chẳng khi nào biết một ngày được sinh ra thế nào!
Những phát minh lớn nhỏ trong thế giới, cách nào đó đều họa lại những gì đã có trong thiên nhiên.Người thưởng thức được thiên nhiên là người khôn ngoan bậc nhất, vì họ thưởng lãm được sự vĩ đại và kỳ diệu của vũ trụ. Người khám phá ra thiên nhiên là quà tặng, là người giầu có nhất, vì họ đã ôm trọn mọi tặng vật của Thượng Đế.
Về điểm này chắc chúng ta phải thực sự tiếc bởi chúng ta cũng không khác gì nhà truyền giáo trên. Đã bao giờ chúng ta dừng lại để chiêm ngắm một bông hoa; đã bao giờ chúng ta biết thưởng thức một làn gió mát; đã bao giờ chúng ta biết tạ ơn Chúa về những cơn mưa rào đột xuất xảy đến giữa thời tiết oi bức… Thật là đáng tiếc nếu mỗi người trong chúng ta không biết thưởng thức những gì là quà tặng của tạo hóa ban tặng cách nhưng không. Chúng ta cứ tấp nập với việc này rồi lại đến việc kia và cứ thế bộ máy quay cuồng hoạt động hết một ngày và nhìn lại chúng ta thấy mình sao trống rỗng chẳng có ý nghĩa gì cả.
Lặng để mạnh hơn. Mạnh ở đây là mạnh cả về mặt thể lí lẫn tâm linh. Thể lí chúng ta cần được nghỉ ngơi sau một ngày làm việc vất vả hoặc chúng ta cần có giờ giải lao giữa các buổi học cũng như các hoạt động khác. Nhờ đó chúng ta sẽ có sức để tiếp tục với ngày mới kế tiếp hoặc các hoạt động tiếp theo. Một võ sĩ chuẩn bị để thi đấu họ cũng cần có thời gian để luyện tập cho mình các chiêu thức, luyện nội công nhờ đó họ mới có thể thắng nổi đối phương.
Chúa Giê-su trước khi công khai đi rao giảng, Ngài đã thinh lặng trong khoảng thời gian ba mươi năm, nhờ đó khi đi bước vào sứ vụ Ngài đã hoàn thành sứ vụ Chúa trao một cách hoàn hảo. Những lời Ngài nói ra đầy sự khôn ngoan của Thần Linh, đến nỗi người nghe đều phải thán phục ông này là một tiên tri, một ngôn sứ phải đến.
Muốn có đời sống nội tâm sâu sắc chúng ta cần có những khoảng lặng, lặng để lắng nghe Lời Chúa. Lời Chúa đó muốn tôi thay đổi điều gì? Chúa dạy tôi điều gì? Tôi phải làm gì để sống đẹp lòng Chúa hơn?... Chỉ có những phút giây lặng bên Chúa ta mới có thể nghe được và thay đổi.
Trong mùa chay thánh này, thiết nghĩ chúng ta nên dành những khoảng lặng nhiều hơn. Thực hành phút hồi tâm là một trong những việc rất tốt và hữu ích vì nó giúp chúng ta nhìn lại một ngày sống của mình với những gì mình đã làm được hoặc chưa. Những lời nói hành vi của mình như thế nào đối với tha nhân? Suy nghĩ của mình có tốt hay không? Những giây phút nào, những việc làm nào có ý nghĩa nhất? Tôi có thấy Thiên Chúa trong các biến cố của tôi hay không?
Một chút suy tư của đứa trẻ bước vào đời cùng với Mùa Chay thánh ý nghĩa nhất. Mong các bạn đón nhận.
Hoa Hướng Dương

Tôi không còn cô đơn khi đời tôi có Chúa …


Chắc hẳn, ai cũng đã nếm qua cái cảm giác cô đơn  - trống vắng. Cái khoảnh khắc ấy vụt đến vụt đi, tựa khoảng không vô tận không cầm nắm được, nó tĩnh lặng đến lạnh lẽo vô hồn. Trong những giây phút bình yên hạnh phúc nhất thì cô đơn - trống vắng vẫn có mặt. Nó như có một khoảng cách, một khoảng rất riêng tư và một khoảng không vô định, vừa chợt thấy rồi thoáng qua và khó nhận ra nó. Nhưng một chút cô đơn – trống vắng cũng làm cuộc đời đủ thi vị lắm chứ!
Một chút cô đơn mỗi khi đau ốm. Nằm yên một mình chợt nghe những âm thanh khác nhau lẫn lộn làm mình khó chịu, để cảm nhận cảnh vật xung quanh, để nhớ điều gì đó, để con mắt cay xè đỏ ngàu rơi lệ, để ăn những miếng cơm - miếng cháo thường ngày ăn sao ngon đến thế, mà giờ đây lại đắng ngắt và nhạt nhẽo. Một chút cô đơn, nhưng cũng không phải là cô đơn. Vì tôi biết có Giêsu ở đó, có Giêsu đang nhìn ngắm, lắng nghe tiếng lòng thổn thức và đang rĩ nhỏ vào tai Ngài. Đấng mà tôi yêu mến “lạy Chúa của con, con tín thác vào Chúa”. Tự an ủi mình vậy đấy! Để mọi thứ sẽ nhẹ nhàng hơn.
Một chút cô đơn khi mỗi đêm dưới ánh đèn nhỏ một mình tôi cặm cụi, say mê nghiên cứu học hành. Bất kể ngoại cảnh xấu tốt thế nào nhưng nó cũng làm cho cái một mình hình như đậm hơn sâu hơn. Cái một mình hình như có chút cô đơn và chút gì đó khác. Phải chăng đó là cái hạnh phúc nho nhỏ trong tim khi tôi nhớ đến những vất vả lặng thầm mà ba mẹ nhọc công lao động và lo lắng cho con cái. Tôi học một mình, nỗi nhớ làm tôi cố gắng hơn. Lúc đó tôi thèm tiếng ba mẹ nói: khuya rồi, ngủ sớm đi con mai học tiếp con ạ!
Một chút cô đơn cộng thêm một chút mệt nhọc, khi ban ngày làm việc và học tập, đêm về lặng lẽ cầu nguyện thầm thĩ với Chúa. Trong một chút cô đơn ấy, Chúa có một chút chỗ đứng, một chút cơ hội bước vào tâm hồn con người cụ thể là tôi.
Một chút cô đơn, khi làm việc bổn phận, với những vui buồn, với những trái ý hay hợp ý với anh chị em, với một chút cô đơn khi yếu đuối và sai lỗi trong ngày sống. Để rồi khi đêm về nhẹ nhàng vắng lặng với sự hiện diện ẩn mình của Thiên Chúa là Chúa lòng mình, với  một chút ấm áp tình Mẹ hiền của Mẹ Maria cùng với những trao đổi âm thầm riêng tư với Thầy chí thánh. Cũng có một khoảng lặng của sự cô đơn giữa ta với ta, giữa cái ta của bên ngoài và cái mình của cõi bên trong.
Một chút cô đơn, khi mỗi sáng thức dậy thật sớm đang khi mọi người vẫn còn đang yên giấc ngủ. Ngày nào cũng giống ngày nào, cũng công việc đó thời gian đó. Thoáng nhìn đã thấy chán rồi! Thế đó, có một chút cô đơn, nhưng lòng tràn đầy niềm an ủi khi nhớ lại lời của Thầy Giêsu nói với các môn đệ:
Này đến giờ -và giờ ấy đã đến rồi- anh em sẽ bị phân tán mỗi người mỗi ngả và để Thầy cô độc một mình. Nhưng Thầy không cô độc đâu, vì Chúa Cha ở với Thầy. Thầy nói với anh em những điều ấy, để trong Thầy anh em được bình an. Trong thế gian, anh em sẽ phải gian nan khốn khó. Nhưng can đảm lên! Thầy đã thắng thế gian”. (Ga 16, 29-33)
Con tin có Chúa luôn đồng hành với con, thế là đủ. Lòng tự nhủ thế!
Một chút cô đơn đâu phải đời tu mới có, đời gia đình cũng thế, sống độc thân cũng thế luôn có mặt của một chút cô đơn. Đôi khi, một chút cô đơn là cầu nối mọi người gần nhau hơn, khi cả hai phía đã hiểu nhưng không biết phải kết nối cách nào. Một chút cô đơn như thế cũng dễ thương và đáng quý!
Như thế đó, một chút cô đơn, mà thực ra cũng không còn cô đơn. Có lẽ đó là nét đẹp là điểm nhấn của cuộc sống bằng tất cả tình yêu mến. Một chút cô đơn tựa như những dấu lặng trong bản nhạc. Dấu lặng thật cần và thật quý. Nhờ những dấu lặng ấy mà bản nhạc trở nên thu hút người nghe có lúc hân hoan, có lúc trầm lắng. Nhờ dấu lặng một chút cô đơn, mà tôi cảm nhận được cái tuyệt diệu của bản nhạc cuộc đời rằng tôi không còn cô đơn khi tôi có Chúa …
LỮ KHÁCH