Đây là bản lược dịch bài diễn văn
Tiến Sĩ Charles E. Rice đọc nhân lễ ra trường của Đại Học Notre Dame trung tuần
tháng 5, 2010 vừa qua. Bài diễn văn được coi là nói thẳng và nói thật. Trong thời
đại mà nền văn minh tục hóa, trào lưu duy tương đối và chủ nghĩa cá nhân tự do
phóng túng đang ở trên chóp đỉnh phát triển tràn lan, bài diễn văn đậm chất
Công giáo như thế này phải được coi là hiếm qúy, vì đã nói lên sự thật, cho dù
một sự thật đớn đau. Dẫu sao chăng nữa, điều cần nói thì cứ phải nói, và cứ phải
lập lại, bởi vì chỉ sự thật mới giải thoát chúng ta, và ân sủng đi kèm với sự
thật mới đem lại ơn cứu độ.
Tiến Sĩ Rice là giáo sư danh dự của
Trường Luật Notre Dame, chuyên về ngành luật hiến pháp. Ông hiện đang giảng dậy
môn “Luật và Luân lý.” Ông viết khá nhiều sách, trong số đó phải kể đến: 50
Questions on the Natural Law; Freedom of Association; The Supreme Court and Public
Prayer; The Vanishing Right to Live; Authority and Rebellion; Beyond Abortion:
The Theory and Practice of the Secular State; No Exception: A Pro-life
Imperative; The Winning Side: Questions on Living the Culture of Life. Tác phẩm
mới nhất của ông “Where Did I Come From? Where Am I Going? How Do I Get There?”
được viết chung với Tiến Sĩ Theresa Farnan.
***
Anh chị em sinh viên tân khoa thân
mến:
Đây là thời gian khủng hoảng. Kinh
tế là một đống nhão nhét, văn hóa cũng là một đống nhầy nhụa, chính phủ thì mất
kiểm soát. Chỉ trong vòng ba năm vừa qua, Notre Dame đã để thua 21 trận bóng cả
thẩy. Nhưng hôm nay, việc chúng ta hiện diện nơi đây lại là một điều hay, nhất
là đối với quý anh chị em tốt nghiệp tại trường Đại Học Công Giáo thời danh
này. Được như vậy là bởi vì phương thuốc chữa trị cho những đổ vỡ hôm nay chỉ
tìm được nơi Chúa Kitô và nơi giáo huấn của Giáo Hội Công Giáo. Vậy ta hãy nhìn
thẳng vào hiện trạng hôm nay để xem mình có thể làm được gì chăng.
Chúng ta đang trải qua một sự thay
da đổi thịt của chính quyền liên bang. Lãnh tụ của một chính thể độc đảng đã được
bầu phiếu với 54 phần trăm cử tri Công Giáo ủng hộ, điều này khiến cho nền kinh
tế tự do và chính quyền hữu hạn được thay thế bằng một hệ thống lãnh đạo tập
trung đầy quyền lực và quyền tài phán vô hạn. Cho dù đi ngược lại ý dân, cuộc cải
tổ y tế không chỉ tài trợ cho việc phá thai, mà còn làm phương hại đền giới cao
niên và các quyền của lương tâm. Cuộc cải tổ này được khởi động bất chấp tiến
trình của luật pháp và mang đậm toan tính hối lộ, cưỡng chế và lọc lừa một cách
công nhiên như chưa bao giờ như thế.
Để có một tỉ dụ về vấn đề tập quyền
nơi một chế độ được thiết lập hợp pháp, ta phải trở về thời gian của năm 1933.
Adolf Hitler được đề cử làm Quốc Trưởng ngày 30 tháng Giêng. Chỉ trong vòng vài
tuần lễ, ông đã củng cố quyền lực của mình. Biến cố quyết định là việc Đảng Quốc
Xã chấp thuận Đạo Luật Khai Thông cho phép Hitler nắm toàn quyền bất khả thâu hồi.
Đó là thời điểm không còn trở ngược được nữa. Đạo Luật Khai Thông nhận được hai
phần ba số phiếu cần thiết chỉ bởi vì nó được đảng Công Giáo, tức là Đảng Trung
Tâm, ủng hộ. Đạo luật “Cải tổ Y tế” nhờ được sự ủng hộ nhiệt liệt của các thành
viên Công Giáo trong lưỡng viện, cũng có thể được coi như một thứ Đạo Luật Khai
Thông hiện đại theo ý nghĩa là nó nhượng cho chính quyền cái tối thượng quyền
trên đời sống của nhân dân. Nó bao gồm cả việc chính phủ liên bang đảm nhiệm
luôn cả việc tài trợ sinh viên học sinh. Những món nợ của sinh viên thì liên
quan gì đến cải tổ y tế? Mẫu số chung chính là quyền kiểm soát. Không sinh viên
nào có thể mượn được nợ đi học do chính phủ liên bang bảo đảm nếu không được sự
chấp thuận theo hệ thống bàn giấy của liên bang. Điều này mở đường cho việc đem
sự trung thành chính trị ra làm bài toán trắc nghiệm cho việc thăng tiến giáo dục,
như đã xẩy ra tại Đức thời Quốc Xã và tại Liên Bang Sô Viết. Điều này củng cố sự
khôn ngoan của Viện Đại Học Công Giáo chúng ta khi quyết định đi trước mọi tài
trợ liên bang.
Không giống như Đức Quốc vào năm
1933, chúng ta có các phương tiện hợp pháp để điều chỉnh lại. Tôi hãnh diện để
nói rằng tôi là một người trong giới Đảng Trà (Tea Party). Vào tháng 11 tới
đây, phản ứng có thể bẻ quặt cánh tay lưỡng viện của giới cầm quyền. Tuy nhiên,
phản ứng này chỉ có tính cách tạm bợ trừ khi chúng ta đi đến tận ngọn nguồn tội
ác. Vấn đế căn rễ không phải là chính trị hay kinh tế, mà là tôn giáo. Và đó
chính là vùng trời anh chị em đang bước vào. Linh Mục (LM) Thomas Euteneuer
nói: “Khủng hoảng xã hội xẩy đến khi chúng ta bầu chọn những kẻ vô luân để cầm
quyền trên chúng ta…Những kẻ không có một căn bản đạo đức lại bầu chọn những
chính khách vô luân để lên cầm quyền…Đúng là lối sống vô luân đã sản sinh ra
các cấp lãnh đạo vô luân.” Nói khác đi, thay vì chọn người đạo đức, chúng ta lại
chọn kẻ vô luân, chính bởi vì chúng ta đã mất đi khả năng, hoặc ước vọng, nói
lên sự khác biệt. Theo cha Euteneuer thì câu trả lời chính là “quay về với Chúa
…Hoán cải tâm hồn chính là điều chúng ta cần làm.”
Chúng ta đã đúng khi cổ võ lòng
trung thành với Hiến Pháp. Thế nhưng, không một hiến chương nào có thể tồn tại
nếu luân lý tính vốn sản sinh ra nó bị tan biến mất. Năm 2001, 13 ngày sau biến
cố 9/11, tại Kazakhstan, Đức Giáo Hoàng (ĐGH) Gioan Phaolô II đã khuyến cáo các
nhà lãnh đạo của cộng hòa Hồi Giáo về một “cuộc tuẩn giáo mù quáng” đối với nền
văn hóa Tây phương vốn đang bị kẹt cứng bên trong một “thứ nghèo mạt ngày càng
sâu đậm hơn về mặt nhân bản, tinh thần và luân lý” gây ra bởi cái “sai lầm
nghiêm trọng là muốn bảo đảm sự thiện hảo của nhân loại bằng cách loại bỏ Thiên
Chúa là nguồn Thiện Hảo Tối Cao.”
Là các sinh viên tốt nghiệp, các bạn
sẽ đi vào một nền văn hóa trong đó việc sát hại trẻ thơ vô tội có chủ đích lại
được toàn thể mọi người xem như một thứ kỹ thuật tự chọn để giải quyết vấn đề.
Vụ bắn giết tại trường Columbine đã đưa ra một tiền lệ. Nếu bạn thấy khó chịu với
bạn học, với chủ nhân hay với nhân viên thuế vụ, thì câu trả lời là cho tụi nó
“đi tầu suốt.” Việc phá thai được hợp pháp hóa chính là thí dụ đầu tiên dùng việc
sát nhân như là một cách giải quyết vấn đề. Còn việc xử tử một người như Terri
Schiavo xẩy ra hàng ngày như cơm bữa, chẳng ai hay biết, khi gia đình và chăm
sóc viên đồng ý cắt đứt phần ăn thức uống, bởi vì đã đến giờ để cho bệnh nhân
được “an tử đầy nhân phẩm.” Việc tách biệt luân lý ra khỏi việc sát nhân tương ứng
sít sao với việc tách biệt luân lý ra khỏi kinh tế, cũng như phái tính và các
quyết định cá nhân nói chung.
Chẳng có gì là khó hiểu trong vấn
đề này. Chúng ta đang trải qua thời kỳ mà LM Francis Canavan, dòng Tên, gọi là
“khúc đầu thừa đuôi thẹo của thời đại Ánh Sáng,” khi mọi nỗ lực của các triết
gia và chính trị gia, trong hơn ba thế kỷ vừa qua, đã hoàn toàn thất bại vì muốn
xây dựng một xã hội như thể Thiên Chúa không hề hiện hữu. Thứ văn hóa thời Ánh
Sáng đó được xây dựng trên ba kiểu láo khoét này là: chủ nghĩa tục hóa, duy
tương đối và duy cá nhân. Đó là những thành tố tạo nên cái mà ĐGH Bênêđíctô XVI
gọi là “sự độc tài của chủ nghĩa tương đối…vốn không nhìn nhận một điều gì là
tuyệt đối, để chỉ coi cái “tôi” và những chứng kỳ quái của nó là thước đo tối hậu.
Ba kiểu láo khoét này được sử dụng triệt để như là võ khí trong tay kẻ thù
chúng ta là Satan, tổ sư láo khoét. Công việc mà anh chị em sinh viên đã được
huấn luyện kỹ lưỡng để thực hành chính là dùng sự thật đối đầu với lời nói láo.
Khi nói sự thật, anh chị em sẽ gây được ảnh hưởng vượt quá tầm hiểu biết của
anh chị em.Đây là lời đàm đạo với ĐGH Gioan Phaolô được ĐHY Edouard Gagnon ghi
lại như sau: “ĐGH nói với tôi rằng sở dĩ sai lạc có đường thao túng là bởi vì sự
thật không được giảng dậy. Chúng ta phải giảng dậy sự thật,,, chứ không chỉ tấn
công những kẻ giảng dậy điều sai lạc bởi vì như thế sẽ chẳng đi đến đâu cả--bởi
những kẻ ấy nhiều vô số kể. Chúng ta chỉ còn có cách là giảng dậy sự thật. Sự
thật kéo theo ân sủng với nó. Khi ta nói sự thật thì một nguồn ân sủng của Chúa
sẽ đi kèm với sự thật ấy. Có thể sự thật sẽ không đi ngay vào trong tâm trí của
người đối diện, nhưng ân sủng của Chúa thì luôn có đó, và khi nào họ cần đến,
thì Thiên Chúa sẽ mở lòng trí họ để rồi họ sẽ chấp nhận sự thật. Sai lạc thì
không bao giờ có ân sủng đi kèm theo cả.”
Cần ghi nhớ rằng Sự Thật (viết
hoa) chính là một nhân vật, Chúa Giêsu Kitô. Ngài không phải là một luật sư,
Giám Đốc Điều Hành (CEO) hay nhà tổ chức cộng đồng. Ngài là Thiên Chúa. Đức Hồng
Y (ĐHY) Avery Dulles đã mô tả ba nguyên lý nền tảng như sau: “Có Thiên Chúa,
Ngài đã mạc khải chính mình một cách trọn vẹn và tối hậu trong Đức Giêsu Kitô,
và Giáo Hội Công Giáo được ủy nhiệm làm người canh giữ và dậy dỗ nguồn chân lý
mạc khải này.” Đức tin Công giáo không hề là một mớ học thuyết, mà là sự gặp gỡ
sống động với Chúa Kitô, Đấng đang sống trong Giáo Hội và giảng dậy qua Giáo Hội.
Huấn quyền của Giáo Hội chính là một
món quà vô giá, không chỉ riêng cho người Công Giáo, mà còn cho tất cả những
người thành tâm thiện chí sống theo lương tâm “trên căn bản lý trí và luật tự
nhiên.” Quyền lực sự ác lúc nào cũng nhắm thẳng vào vị Đại Diện Chúa Kitô là đấng
có thẩm quyền giải thích luật luân lý. Ta phải đáp trả bằng việc trung thành bảo
vệ Ngài và bênh vực Giáo Hội. Nói theo Cha Euteneuer thì chúng ta không phải là
Giáo Hội Bất Lực, mà là thành phần của Giáo Hội Chiến Đấu. Chúng ta có nhiệm vụ
chiến đấu cho sự thật. Đừng để những kẻ láo khoét lừa gạt chúng ta.
1) Kiểu láo khoét thứ nhất là chủ
nghĩa tục hóa: Không có Thiên Chúa, hoặc Thiên Chúa là Đấng không thể biết đến
được. Họ bảo đó là ý nghĩa của Tu Chính Án Thứ Nhất. Nhưng đó cũng là một lời
láo khoét. Ngày 24-25 tháng 9 năm 1789, Quốc Hội Đệ Nhất đã chấp thuận Tu Chính
Án Thứ Nhất, đồng thời yêu cầu Tổng Thống (TT) công bố một ngày để “tạ ơn và cầu
nguyện hầu nhìn nhận muôn vàn hồng ân mà Chúa Toàn Năng ban xuống.” TT
Washington đã công bố ngày cầu nguyện đó. Tu Chính Án Thứ Nhất đòi buộc chính
quyền liên bang phải có thái độ trung lập về các vấn đề tôn giáo trong khi nhìn
nhận việc chính quyền tiểu bang lẫn liên bang có quyền xác nhận sự hiện hữu của
Thiên Chúa. Tối Cao Pháp Viện nay đã áp đặt trên tất cả mọi chính quyền một
nghĩa vụ là duy trì tính trung lập bất khả hữu giữa chủ nghĩa duy thần và phi
thần. Những từ ngữ “under God” (dưới ánh mắt của Chúa)—mà theo Thẩm Phán
William Brennan vẫn còn là một mô tả chính xác về lề lối làm việc của tòa án—có
thể tồn tại trong bản “Pledge of Allegiance” (Tuyên Thệ Trung Thành) chỉ bởi vì
chúng “không còn mang một mục tiêu hoặc ý nghĩa tôn giáo nào nữa.” Trái lại,
cùng lắm, những từ ngữ đó chỉ “thừa nhận cái sự kiện lịch sử là Tổ Quốc chúng
ta đã được xây dựng ‘dưới ánh mắt của Chúa.’”
Ở mọi cấp bậc trong chính quyền,
việc đình chỉ phán đoán về việc Thiên Chúa hiện hữu đã biến thành công trình
xây dựng chủ nghĩa tục hóa. Ngày nay, việc xác nhận có Thiên Chúa được coi là
ngoại lý, và thường bị loại trừ ra khỏi lãnh vực công cộng vốn được uốn nắn bằng
quyền lực và tư lợi hơn là bằng điều đúng hay sai.
Việc Thiên Chúa hiện hữu chẳng phải
là một điều hiển nhiên. Thế nhưng, thật là phi lý, thậm chí ngu đần, nếu không
tin vào Thiên Chúa, một hữu thể vĩnh cửu, vô thủy vô chung, và luôn luôn hiện hữu.
Cứ tưởng tượng xem, đã có một lúc tuyệt nhiên không hề có một cái gì cả. Nhưng
nói thế thì thật vô nghĩa. Thánh Tôma dậy: “Nếu có một lúc nào đó không hề có một
cái gì cả, thì không thể nào một vật gì có thể bắt đầu hiện hữu được; và như thế,
cho đến nay không thể có một cái gì hiện hữu cả -điều này thật phi lý.” Trong
phim “The Sound of Music,” Julie Andrews đã hát thế này: “Nothing comes from
nothing. Nothing ever could.” (Không gì đến được từ hư vô. Không gì bao giờ có
thể có được).
Nền tảng duy nhất của các quyền lợi
siêu việt đối lại với Nhà Nước chính là cuộc tạo dựng nhân vị bất tử theo hình ảnh
và giống như Thiên Chúa. Bất kỳ một nhà nước nào đã hiện diện và sẽ còn hiện diện,
đều đã hoặc sẽ bị dẹp tiệm. Mọi hữu thể con người đã được đầu thai thì sẽ sống
đời đời. Đó là lý do các bạn sinh viên có được các quyền lợi siêu việt đối lại
với Nhà Nước. Nhân vị không hiện hữu cho Nhà Nước. Nhà Nước hiện hữu là vì con
người. Và vì cả gia đình nữa.
2) Kiểu láo khoét thứ hai của
Satan chính là chủ nghĩa tương đối. Thật là phi lý khi bảo rằng tất cả mọi sự đều
tương đối, bởi lẽ chính lời tuyên bố này cũng chỉ tương đối. Chủ nghĩa tương đối
thực ra chỉ là một hình thức của chủ nghĩa duy nghiệm pháp lý vốn chủ trương rằng
không có một quy luật cao hơn nào có thể giới hạn được quy luật con người có thể
làm được. Muốn hợp lệ, một quy luật phải tuân thủ theo phương thức quy định và
phải hữu hiệu. Hans Kelsen, nhà duy nghiệm lừng danh của thế kỷ 20, đã tuyên bố
rằng Auschwitz và những trại khổ sai Gulags của Liên Sô chính là quy luật hợp lệ.
Ông không thể phê phán chúng là bất công, bởi vì, theo ông, công bằng là “một
lý tưởng ngoại lý.” Kelsen cho rằng chủ nghĩa tương đối chính là triết lý của nền
dân chủ. ĐGH Gioan Phaolô II lại cho rằng chủ nghĩa tương đối sẽ dẫn đến chuyên
chế cực quyền. “Ai không thừa nhận sự thật siêu việt thì cực quyền sẽ trấn áp,
và rồi mỗi người sẽ áp đặt tư lợi của mình bất chấp quyền lợi của người
khác.”
Trong đời sống cá nhân và nghề
nghiệp, các bạn hẳn sẽ bị áp lực trở thành một người đi theo chủ nghĩa tương đối,
để nói láo, lừa dối, hoặc biển thủ. Như ĐGH Gioan Phaolô II đã từng nói, “những
cấm đoán tiêu cực của Mười Điều Răn, vốn là một thể hiện của luật tự nhiên,
không hề cho phép một khoản luật trừ nào.” Nhưng các bạn sẽ phải trả một cái giá
cho sự trung thành của mình.
Đây là một câu chuyện có thật: Hải
Quân Đại Úy James Mulligan đã trải qua ròng rã bẩy năm rưỡi trời biệt giam
trong nhà tù Hanoi Hilton sau khi phi cơ phản lực của ông bị bắn rơi vào năm
1966. Trong một thời gian, ông là bạn cùng phòng với Jeremiah Denton, sau này
trở thành Thượng Nghị Sĩ. Cũng như đồng đội của mình, ông từng bị tra tấn nhiều
lần và thường xuyên, mục đích là phản lại đồng đội và tổ quốc mình. Đại Úy
Mulligan đã hoàn toàn trông cậy vào lời cầu nguyện, nhất là chuỗi Mân Côi.
Trong cơn cực hình, ông đã tự đặt ra lời kinh mà thiết tưởng mỗi người cần đọc
cho chính mình: “Lậy Chúa, xin cho con sức mạnh và lòng kiên quyết nhìn thấu suốt
sự việc này cho đến cùng, cách này hay cách khác. Chẳng có ai hay biết ngoài một
mình con với Chúa, nhưng chỉ cần như vậy mà thôi. Chúa đã chịu khổ hình vì niềm
tin của Chúa, còn con đây cũng đang chịu khổ nhục vì niềm tin của con. Đúng vẫn
là đúng cho dù không ai đúng cả; còn sai vẫn là sai cho dù mọi người đều sai hết.”
Đó là câu trả lời cho chủ nghĩa duy tương đối.
3) Kiểu láo khoét thứ ba chính là
chủ nghĩa cá nhân. Các lý thuyết về khế ước xã hội đã phủ nhận bản chất xã hội
của con người. Theo đó, mỗi người chỉ là một cá nhân tự lập, đơn lẻ, chẳng có
tương quan gì đến người khác, ngoại trừ khi nó đồng thuận. Đó là nguồn gốc của
lập trường phò-chọn lựa như ta thấy ngày nay. Phong trào Kế hoạch hoá gia đình
không hề xét lại lý thuyết đó. Người mẹ chẳng có liên hệ gì với đứa con chưa được
sinh ra ngoại trừ khi bà chấp nhận điều đó. Vợ chồng cũng chẳng có mối liên hệ
gì liên tục ngoại trừ khi cả hai tiếp tục đồng thuận. Và vân vân. Cá nhân tự lập
trở thành thiên chúa của chính mình. Lương tâm không phải là một phán đoán về sự
đúng hay sai một cách khách quan của một hành vi. Nó là quyết định không bị kiềm
chế của cá nhân về điều mình muốn làm. Điều nó chọn cho mình tất nhiên phải là
điều đúng. Như thế mới là tự do. Thế nhưng sự “tự do chân chính” không thể tách
biệt với sự thật được.”
Bạn có hoàn toàn tự do để bỏ cát
vào thùng xăng của xe bạn. Nhưng sau đó bạn sẽ không còn tự do để lái chiếc xe
này nữa bởi vì bạn đã vi phạm sự thật về bản chất chiếc xe ấy. Bạn có “tự do” để
làm điều dối trá, bậy bạ, vân vân, nhưng bạn sẽ tự hạ giảm con người mình bởi
vì bạn đã vi phạm sự thật về chính bản chất mình. Bạn đã chọn một sự việc mang
tính luân lý tương đương với việc bỏ cát vào thùng xăng xe. Và có một điều mà
cá nhân tự lập của huyền thoại phóng túng không bao giờ làm được. Đó là không
thể đưa mình ra khỏi hiện hữu. Nó sẽ sống mãi, và sẽ hưởng sự vĩnh cửu ở một
nơi nào đó. Nơi đó ở đâu, thì còn tùy ở nó.
Đã đến lúc ta phải lột trần mặc cảm
tự ti của ta. Coi chừng bị lừa gạt khi ta nghĩ rằng những kẻ thông minh là những
người có học nhưng quan niệm rằng từ hư vô vẫn có thể rút ra được một cái gì
đó; những kẻ đó đoan chắc rằng mình không thể quyết đoán về bất cứ điều gì; họ
còn nghĩ rằng tự do là phải không giới hạn, phải có toàn quyền, toàn lực, để
làm bất kỳ điều gì mình muốn. Một nền văn hóa như thế không chỉ đánh mất đi niềm
tin mà còn đánh mất cả tâm trí nữa. Họ phải biết lắng nghe sự thật, nhất là về
quyền sống.
Nhưng ngay ở điểm này chúng ta lại
gặp vấn đề. Những nỗ lực phò-sinh của chúng ta đã bị hóa giải bởi sự hèn nhát của
chính chúng ta trong việc ngừa thai. Hội Nghị Anh Giáo Lambeth năm 1930 là lần
đầu tiên một giáo phái Kitô nói lên lập trường là ngừa thai không bao giờ đúng
một cách khách quan cả. Huấn Quyền thì giảng dậy sự thật này là: ngừa thai là
hoàn toàn sai. (1) Trước hết là vì nó chủ tâm tách lìa hai khía cạnh bất khả ly
của phái tính: hợp nhất và sinh sản; (2) thứ đến, khi biến đổi bản chất của
hành vi vợ chồng như thế, người nam và người nữ đã tiếm quyền của Thiên Chúa, tự
đặt mình làm người quyết định việc cho hay không cho một mầm sống được khởi sự,
và nếu cho thì khi nào; (3) sau cùng, ngừa thai phá hủy hoàn toàn sự tự hiến hỗ
tương và toàn vẹn vốn là nét đặc trưng của hành vi vợ chồng. Khi con người tự đặt
mình làm kẻ quyết định việc cho hay không cho một mầm sống được khởi sự hoặc
khi nào thì cho khởi sự, thì nó cũng sẽ tự đặt mình làm kẻ quyết định khi nào
thì sự sống phải chấm dứt, tỉ như trong phá thai và trợ tử. ĐGH Gioan Phaolô II
đã mô tả ngừa thai và phá thai như “hoa quả của cùng một cây.” Nếu con người là
kẻ quyết định xem phái tính có dính dáng gì đến sinh sản hay không, thì hà cớ
gì Freddy và Harry lại không có quyền có hôn thú? Năm 2004, Donald Sensing, Mục
sư của Giáo Phái Ba Ngôi Thống Nhất tại Franklin, TN, viết rằng các quý vị nào
chống hôn nhân đồng tính, thì rất tiếc, “đã đi chậm một nước cờ. Bức tường hôn
nhân truyền thống đã gẫy sập vào khoảng 40 năm trước đây” khi ai nấy đều công
nhận viên thuốc ngừa thai.
Thiên Chúa muốn dùng con người để
cộng tác với Ngài trong việc tạo dựng các công dân mới của nước trời. Vợ chồng
nào ngừa thai là đã làm biến đổi hành vi vợ chồng nhằm ngăn ngừa công cuộc tạo
dựng. Họ như đang nói thế này với Chúa: “Lậy Chúa, chúng con biết rằng có thể ý
Chúa là muốn cho một nhân vị mới được nẩy sinh từ hành vi ấy của chúng con, để
rồi sẽ tiếp tục sống muôn đời. Chúng con biết đó là ý Chúa. Nhưng chúng con sẽ
không để cho Chúa làm như thế.” Thật là quá sức tưởng tượng! ĐGH Gioan Phaolô
II nói: “Ngừa thai là một điều phạm luật sâu xa tới độ sẽ không bao giờ và
không thể vì bất kỳ lý do nào có thể biện minh được. Nghĩ khác đi, và nói khác
đi thì cũng y như bảo rằng: trong đời sống con người, sẽ có những tình huống nẩy
sinh khiến cho ta nghĩ rằng việc không chấp nhận Chúa là Chúa thì vẫn hợp luật
như thường.”
Người Công Giáo thực hiện việc ngừa
thai cũng đều đều y như bất kỳ ai. Có một lý do: là họ đã không được thông báo
và giải thích đầy đủ. Nhiều nhà thờ và trường Công Giáo đã đóng cửa hay bị sát
nhập do thiếu giáo dân và học sinh. Câu trả lời công bằng có thể là: “Kính thưa
Đức Cha (hoặc Cha), sẽ không xẩy ra như thế đâu nếu Đức Cha/Cha cũng như các vị
tiền nhiệm biết làm đúng chức năng của mình, suốt từ 40 năm qua cho đến hôm
nay, trong việc giáo dục bổn đạo về sự ác của ngừa thai và về toàn thể giáo huấn
tích cực của Giáo Hội liên quan đến hôn nhân và quà tặng của sự sống.” Anh chị
em sinh viên Công giáo tốt nghiệp hẳn biết rõ điều này. Anh chị em đừng sợ việc
sống đạo. Nhưng hãy giảng dậy việc sống đạo, bằng lời nói cũng như bằng gương
sáng.
Quả thật là có mối tương quan rõ
ràng giữa các tiền đề của thời đại Ánh Sáng với việc ngừa thai và những điều
tác hại như sách báo tranh ảnh khiêu dâm, việc chồng chung vợ chạ, ly dị, thụ
thai trong ống nghiệm, tạo sinh vô tính, vân vân. Tháng qua, các khoa học gia tại
Viện Đại Học Newcastle, Anh Quốc, đã loan báo rằng họ đã tạo ra được một “phôi
thai tạo mẫu” với DNA của một người nam và hai người nữ, cho ra đời một đứa trẻ
có hai bà mẹ. Các khoa học gia Hoa Kỳ sẽ không đứng xa đằng sau.
ĐHY Joseph Ratzinger—nay là ĐGH Bênêđictô
XVI—đã nói đến điểm này vào năm 2002. Ngài bình luận về chương 3 sách Sáng Thế
Ký mô tả việc các thiên thần mang gươm lửa canh giữ vùng phía Đông vườn Điạ
Đàng hầu không cho con người, sau cuộc sa ngã, được ăn trái từ Cây Sự Sống. Sau
khi sa ngã, con người bị cấm ăn trái cây bất tử, “bởi vì trong điều kiện sa ngã
thế này mà trở thành bất tử thì chính là bị…trầm luân đời đời.” Ratzinger nói:
“Hiện nay người ta đang hái trái từ cây sự sống và tự tạo cho mình trở thành chủ
nhân của sự sống, người ta đang tái lập sự sống…Điều con người lẽ ra phải thận
trọng đừng bao giờ làm thì nay lại đang xẩy ra; con người đang nhấp chân bước
qua phần biên giới cuối cùng…Con người đang biến người khác trở thành sản phẩm
của chính mình. Con người không còn được khai sáng trong mầu nhiệm của tình yêu
nữa, qua thụ thai và hạ sinh…mà qua con đường thành phẩm của kỹ nghệ, giống y
như các sản phẩm khác…Chúng ta có thể đoan chắc điều này: Thiên Chúa sẽ phải
hành động để ngăn chận tội ác tối hậu, một hành vi tự hủy tối hậu của con người.
Ngài sẽ phải hành động chống lại nỗ lực giảm hạ con người qua việc chế tạo ra
những hữu thể-nô lệ. Hẳn nhiên là phải có lằn mức mà con người không thể vượt
qua…”
Vấn đề thật nghiêm trọng. Thành phố
Ninivê đã ăn năn, đã cầu nguyện và đã được tha thứ. Trong khi đó Sođôma và
Gômôra thì không ăn năn, cũng chẳng cầu nguyện, và chuyện gì phải xẩy đến đã đến.
Nếu muốn, số phận ấy cũng sẽ dành cho chúng ta.
Nhìn những sự kiện này với cặp mắt
nhân loại, ta sẽ chỉ thấy vô vọng. Nhưng chúng ta không hề cậy dựa vào sức
mình. Chúng ta cũng chẳng biết tất cả mọi sự. Đừng thất vọng khi những điều
không hay xẩy đến. Thánh Maximilian Kolbe nói: “Thiên Chúa cho phép mọi việc xẩy
ra để nhắm đến một phúc lành lớn hơn.” Hãy tin tưởng nơi Chúa. Cha Walter
Ciszek, dòng Tên, người đã trải qua 25 năm trường trong các trại tù Liên Sô, đã
nói rằng điều Chúa muốn, nhất là trong những lúc oan trái hoặc hiểm nguy, chính
là “một hành vi tín thác trọn vẹn,” vốn đòi hỏi nơi ta một “niềm tin tuyệt đối:
tin vào sự hiện hữu của Chúa, tin vào sự quan phòng của Ngài, tin vào sự ân cần
săn sóc của Ngài cho đến tận những chi tiết nhỏ nhặt nhất trong đời ta, tin vào
quyền năng của Ngài luôn nâng đỡ ta, và tin vào tình yêu của Ngài luôn che chở
ta.”
Hãy tín thác vào Chúa! Hãy cầu
xin, nhất là với Đức Mẹ, là Mẹ Thiên Chúa và Mẹ chúng ta. Năm 1571, tại
Lepanto, số phận các chiến đoàn Kitô giáo hẩm hiu đến độ, nếu như bây giờ thì
Las Vegas sẽ đánh cá ngay lập tức. Thế nhưng những lời cầu nguyện dâng lên Mẹ
Maria Mân Côi đã đem lại chiến thắng. Mẹ cũng có thể lo cho các vấn đề hôm nay
của ta. Hôm nay có mặt nơi đây thật là một dịp trọng đại. Ta biết rằng mình
đang ở bên phe chiến thắng. THIÊN CHÚA KHÔNG HỀ CHẾT. NGÀI CŨNG CHẲNG MỎI MỆT.
Xin cảm ơn vì đã cho tôi đặc ân được
ở đây với anh chị em. Xin Chúa chúc lành cho anh chị em, cho gia đình anh chị
em và cho Viện Đại Học Công Giáo thân thương của chúng ta. Xin Chúa chúc lành
cho đất nước Hoa Kỳ của chúng ta.
06/11/10
Lễ Thánh Tâm Chúa Giêsu
Nguyễn Kim Ngân
(Nguồn: www.vietcatholic.org)
Tác giả: Tiến Sĩ Charles E. Rice (Nguyễn Kim Ngân dịch)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét