Thứ Bảy, 29 tháng 11, 2025

BÀI PHÁT BIỂU TỔNG KẾT LỚP GIÁO LÝ HÔN NHÂN CỦA MỘT LUẬT SƯ


Lời mở đầu

Kính thưa Quý Cha, quý Thấy Cô, Thưa các anh chị em, 

Tôi đứng đây với tâm trạng vừa vinh dự vừa bối rối. Vình dự vì được lựa chọn chia sẽ những suy tư cả nhân trong buổi tổng kết ý nghĩa này. Bối rối vì tôi nghĩ mình không phải là người thích hợp nhất - tôi không phải tín hữu, không được rửa tội. Nghề nghiệp của tôi là luật sư - một nghề quen với lý lẽ, với tranh luận, với những điều khoản rõ ràng đen trắng. Nhưng có lẽ chính vì thế, hành trình của tôi qua khóa học này lại có những góc nhìn khác biệt mà tôi muốn chia sẻ.

Khi bước vào buổi học đầu tiên, tôi cảm thấy mình như một người lạ. Xung quanh tôi là những cặp đôi nắm tay nhau, những khuôn mặt rạng rỡ chuẩn bị cho hôn lễ sắp tới. Còn tôi - đã hơn 30 tuổi, độc thân, không rõ lý do tại sao mình ngồi đây.

Trong nghề nghiệp, tôi quen với việc phân tích, đánh giá, tìm kiếm bằng chứng, nhưng về đức tin, về tình yêu, về hôn nhân - tôi không có bằng chứng gì cả. Tôi chỉ có một khao khát mơ hồ, một câu hỏi chưa có lời giải: Hôn nhân có thể là gì hơn một hợp đồng pháp lý không?

Người ta thường tìm đến tôi khi muốn ly hôn, hay tranh chấp . Tôi thấy hôn nhân được phân chia theo tài sản, quyền nuôi con, nghĩa vụ cấp dưỡng. Tôi thấy tình yêu được định giá bằng tiền, bằng bất động sản, bằng những lập luận sắc bén.

Nhưng qua khóa học này, tôi được nghe về một chiều kích hoàn toàn khác của hôn nhân - không phải là hợp đồng đôi bên cùng có lợi, mà là giao ước trước mặt Thiên Chúa. Không phải là thỏa thuận có thể hủy bỏ khi một bên vì phạm, mà là định ước bất khả phân ly giống như tình yêu của Chúa Kitô dành cho Hội Thánh.

Cả đời tôi được dạy để đi tim kiếm lý lẽ và phân tích. Nhưng khoá học này dạy tôi rằng có những điều không thể giải thích bằng lý trí, mà chỉ có thể được cảm bằng trái tim.

Tại sao phải trung thành với một người suốt đời, kể cả khi thịnh vượng lần nghèo khó, khi khỏe mạnh lần đau yếu? Trong tôi đầy hoài nghĩ. Lý trí bảo đó là phi thực tế, là ràng buộc bất công. Nhưng trái tim hiểu rằng đó chính là tình yêu đích thực - tình yêu không phải là cảm xúc nhất thời, mà là quyết định mỗi ngày.

Một điều khiến tôi tâm đắc sâu sắc trong các buổi học là: Giáo lý không dạy chúng ta rằng hôn nhân sẽ hoàn hảo, mà dạy rằng hôn nhân là con đường thánh hóa những con người bất toàn.

Tôi không tin vào sự trung thành tuyệt đổi không bao giờ dao động. Tôi tin vào sự trung thành của những người biết mình yếu đuối, biết mình có thể ngã, nhưng vẫn chọn đứng lên và quay về với nhau. Biết phạm lỗi và nhận lỗi, cầu xin sự tha thứ và tiếp tục sống - đó mới là sự trung thành thật sự.

Trong luật pháp, một hợp đồng bị vi phạm sẽ bị hủy bỏ. Nhưng trong hôn nhân theo đức tin Công giáo, một giao ước bị tổn thương có thể được chữa lành bằng ân sủng và tha thứ.

Tôi không theo Chúa - ít nhất không theo cách truyền thống. Nhưng mỗi lần đi ngang Nhà thờ, khi tiếng chuông đổ và bầy bồ câu bay lên, tôi cảm thấy mình bỗng dịu lại, thật thà, trong lòng tràn ngập sự bình an.

Có lẽ đó là cách Chúa nói chuyện với những kẻ như tôi - không qua giáo lý phức tạp, mà qua những khoảnh khắc giản dị. Và có lẽ hôn nhân cũng vậy - không phải là hiểu hết nhau bằng lý trí, mà là cảm nhận được sự binh an khi ở bên nhau , dù không giải thích được tại sao.

Lời cảm ơn

Tôi muốn cảm ơn Quý Cha và quý Thầy Cô đã không từ chối một người như tôi - người ngoại đạo, người hoài nghi, người bị chia rẽ giữa đức tin và lý lẽ. Mọi người đã cho tôi thấy rằng Giáo Hội không chỉ dành cho những người hoàn hảo, mà còn dành cho cả những kẻ đang tim kiếm.

Tôi cảm ơn các anh chị em trong lớp. Nhìn thấy tình yêu trong ánh mắt các anh chị dành cho nhau, nghe các anh chị chia sẻ về hành trình sắp tới, tôi thấy hy vọng - hy vọng rằng giữa thế giới đầy rấy sự mâu thuẫn và bất trắc, vẫn còn những người dũng cảm tin vào sự đơn nhất và bất khả phân ly của đời sống hôn nhân.

Tôi không biết tương lai của mình sẽ ra sao. Có thể tôi sẽ kết hôn, có thể không. Có thế tôi sẽ được làm bí tích hôn phối, có thể không. Nhưng dù thế nào, khóa học này đã cho tôi một điều quý giá: Một cái nhìn về tình yêu cao hơn những gì lý lẽ thông thường có thể định nghĩa. Và tôi tin rằng Chúa sẽ ban phúc cho mọi tình yêu chân thành - dù nó diễn ra trong hay ngoài bí tích, dù người yêu có tên trong số giáo họ hay không,

Xin chúc tất cả các anh chị em sắp bước vào hôn nhân một hành trình tràn đầy ân sủng. Và xin nguyện chúc cho những kẻ như tôi - những kẻ vẫn còn đang lạc lối, vẫn còn đang tìm kiếm - rằng một ngày nào đó, khi tiếng chuông nhà thờ lại đổ, chúng tôi sẽ không chỉ dừng lại lắng nghe, mà sẽ có đủ can đảm để bước vào.

Xin chân thành cảm ơn.

(Trích bài phát biểu của một học viện lớp GLHN khoá 2 – năm 2025 tại nhà thờ Chánh Toà SG)


x

Thứ Năm, 27 tháng 11, 2025

CHECKLIST MỖI LẦN ĐI XƯNG TỘI


[ ] 1. Xét mình nghiêm túc

  • Nhớ lại:

    • Tội đối với Chúa (bỏ lễ, lười cầu nguyện, xúc phạm sự thánh…)

    • Tội đối với người khác (nói xấu, bất công, giận ghét, không tha thứ…)

    • Tội đối với chính mình (nghiện ngập, sống buông thả, lười biếng…)

  • Ghi ra giấy nếu sợ quên.

[ ] 2. Ăn năn tội thật lòng

  • Nhìn tội mình trong ánh mắt yêu thương của Chúa, chứ không chỉ là “sợ phạt”.

  • Thầm nói với Chúa: “Con thật lòng xin lỗi, xin cho con chừa bỏ”.

[ ] 3. Quyết tâm chừa

  • Chọn ít nhất 1 tội cụ thể mình sẽ cố gắng dứt/bớt (VD: bớt chửi thề, bớt nói xấu…).

  • Quyết tâm tránh dịp tội (những hoàn cảnh dễ kéo mình sa ngã).

[ ] 4. Nghĩ đến việc “sửa sai”

  • Nếu:

    • Lấy của người khác → ghi nhớ phải trả lại/đền bù.

    • Làm tổn thương ai → sắp xếp xin lỗi/hàn gắn sau khi xưng tội.

    • Gây gương xấu → dự tính một việc tốt cụ thể để “gỡ gương xấu”.

[ ] 5. Xưng tội đơn sơ – thành thật

  • Dấu Thánh Giá, nói:

    • Lần xưng tội gần nhất khi nào.

    • Kể tội rõ nhưng gọn, bắt đầu từ tội nặng / thường phạm.

  • Không cần kể dài dòng chuyện đời, chỉ tập trung vào tội.

[ ] 6. Lắng nghe cha khuyên – nhận việc đền tội

  • Nghe cha nhắc nhở, hướng dẫn.

  • Nhận việc đền tội (đọc kinh, việc lành…) và ghi nhớ rõ:

[ ] 7. Làm ngay việc đền tội

  • Thực hiện sớm nhất có thể sau khi ra khỏi toà giải tội.

  • Làm với tâm tình: tạ ơn – đền bù – yêu Chúa hơn, đừng làm qua loa.

[ ] 8. Bắt tay vào “sửa sai”

  • Trả lại/đền bù nếu có liên quan đến của cải.

  • Xin lỗi, hoà giải nếu có người mình đã làm tổn thương.

  • Cố gắng sống tốt hơn trước mặt những người mình đã từng gây gương xấu.

[ ] 9. Chọn một việc hy sinh / bác ái để đền vạ tạm

  • Ví dụ:

    • Nhịn một cuộc vui / mua sắm không cần thiết.

    • Dành thời gian thăm người bệnh, giúp đỡ người khó khăn.

    • Thêm 1 chục kinh Mân Côi mỗi ngày dâng để đền tội.

  • Dâng lên Chúa với lời nguyện:

[ ] 10. Thỉnh thoảng lãnh ơn xá (nếu có thể)

  • Khi có dịp:

    • Viếng Thánh Thể, đọc Kinh Thánh 30 phút, lần chuỗi chung, Đàng Thánh Giá…

  • Kèm theo:

    • Xưng tội (trước/sau trong thời gian quy định)

    • Rước lễ

    • Cầu nguyện theo ý Đức Giáo Hoàng

    • Quyết tâm dứt bỏ mọi quyến luyến tội lỗi

[ ] 1. Đừng hoảng, nhưng cũng đừng chần chừ

[ ] 2. Đến xưng tội bình thường

[ ] 3. Kể sự việc rõ ràng, nhưng kín đáo và gọn

[ ] 4. Tin rằng cha và Hội Thánh có cách giải quyết

[ ] 5. Sau đó sống như người đã được tha thứ

  • Siêng năng Thánh lễ

  • Cầu nguyện

  • Sống bác ái, phục vụ

Thứ Ba, 25 tháng 11, 2025

KHI CÒN BỐ MẸ – ĐỪNG VỘI BẬN

Người ta cứ bảo: “Làm con, phải hiếu thảo.”

Nghe thì đúng, nhưng mấy ai hiểu, chữ hiếu không nằm ở mâm cơm đầy, ở cái phong bì dày, hay món quà to…

Chữ hiếu, đôi khi chỉ bắt đầu từ việc đừng vội nói "con bận lắm" mỗi khi bố mẹ cần.

Hồi mình còn nhỏ, bố mẹ chẳng bao giờ bận.

Dù bận mấy, cũng gác lại để đưa con đi học, để nấu bát cháo lúc con ốm, để ngồi học bài cùng con – dù chẳng hiểu gì mấy cái "x + y" là gì.

Bố mẹ không có ngày nghỉ. Cũng chẳng biết deadline, KPI là gì. Chỉ biết rằng: con cần là có mặt.

Vậy mà đến khi mình lớn, chỉ cần một cuộc gọi của mẹ: “Hôm nay mẹ hơi mệt”

Mình cũng đáp lại: “Con đang họp, để lát nữa nhé mẹ.”

Lát nữa, là lát nào?

Người ta hay nghĩ báo hiếu là chuyện của lúc có tiền, có nhà, có xe…

Nhưng bố mẹ đâu cần những thứ đó.

Chỉ cần một tin nhắn hỏi han, một buổi chiều về sớm ăn cơm chung.

Một cánh tay đỡ khi bố mẹ loạng choạng bước xuống bậc thềm.

Một lời giới thiệu: “Đây là mẹ con đấy” – mà ánh mắt họ rưng rưng.

Chữ hiếu, thực ra không cần học – chỉ cần nhớ.

Nhớ bố mẹ từng vì mình sống ra sao, thì giờ… mình sống sao cho xứng.

Vậy nên, nếu hôm nay còn được nghe tiếng gọi "con ơi"...

Xin đừng vội bận.

Vì một ngày kia, khi muốn nghe lại – có khi… chẳng còn ai gọi nữa.

Tg: CGTL Đinh Đoàn

Thứ Sáu, 7 tháng 11, 2025

HỌC YÊU THÁNH GIÁ

 


Thập giá là biểu tượng của ơn cứu độ. Nói đến thập giá, ta nghĩ đến con đường thiêng liêng để nên thánh. Ta nghĩ đến thập giá của Chúa Giêsu, nghĩ đến cuộc khổ nạn đau thương của Người. Ta ước ao trở nên đồng hình đồng dạng với Người trong đau khổ để được thông phần với Người trong vinh quang (Rm 6,8; Lt 95). Có những lúc sốt mến nồng nàn, có khi ta không ngần ngại xin Chúa cho ta thêm thập giá, để chứng tỏ rằng ta yêu mến và để được chia sẻ đau khổ với Người ta yêu dấu. Tuy nhiên, cũng phải thừa nhận rằng, ấy là lúc ta đang cầu nguyện, ấy là lúc ta đang ở bên Chúa, ấy là lúc ta đang tĩnh tâm, ấy là lúc ta đang sốt mến dạt dào; còn thực tế, khi chân ta chạm vào mặt đất, tay ta vật lộn với cuộc sống mưu sinh, sống giữa đời thường, có lẽ ta phải cúi mình đấm ngực mà rằng thực tế ta không hề muốn thập giá.

Nếu thập giá nhẹ nhàng, ngọt ngào và dễ chịu, hẳn là nhân loại này thay thảy đều nên thánh cả; nhưng thập giá không như vậy. Thập giá lúc nào cũng trái ngược với bản tính con người trong ta. Có những tương quan khiến ta ngộp thở, bực bội và khó chịu, nhưng để sống tinh thần Tin Mừng, ta phải bỏ mình đón nhận. Có những lời mời gọi đầy hấp dẫn đê mê, nhưng để giữ cho mình trong sạch, ta phải chiến đấu với bản tính yếu đuối của mình. Có những điều trái ý, những nghịch cảnh, mất mát đau thương xảy đến trong đời, nhưng để sống như một người có niềm tin, ta phải học cách an lòng đón nhận.

Thập giá có đó như một nỗi giằng co giữa ước muốn thánh thiện với bản tính con người thấp hèn trong ta. Bởi lẽ, nếu không có ao ước hướng thượng, hẳn là ta có thể đã hành xử theo kiểu tự nhiên, theo thói đời lẽ tục, chẳng cần kiềm lòng, chẳng cần giữ kẽ, ‘mắt đền mắt, răng đền răng’. Nhưng vì ước ao nên hoàn thiện, thập giá trở nên như một thách đố. Ước muốn nên thánh thôi thúc ta vác lấy thập giá, nhưng bản tính yếu đuối trong ta xui là lẩn tránh. Và thập giá trở thành một nỗi chênh chao. Một điều ta vừa từ khước lại vừa ước ao.

Đọc Tin Mừng ta thấy Chúa Giêsu mời gọi các môn đệ của mình, “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo” (Mt 16,24). Người môn đệ là người theo Chúa Giêsu, người mang danh Kitô hữu cũng phải là người theo Chúa Giêsu. Ta không thể nói mình theo Chúa mà lại khước từ thập giá, vì chính Chúa cũng vác thập giá mà. Tuy nhiên, trước khi vác thập giá, Chúa Giêsu thẳng thắn mời ta phải từ bỏ chính mình trước đã. Vì sao lại phải từ bỏ chính mình trước? Liệu ta có thể vác thập giá khi chưa từ bỏ chính mình được không?

Hẳn là ta có thể vác thập giá khi chưa từ bỏ chính mình, nhưng khi ấy, thập giá không còn là thập giá nữa, mà sẽ là khổ giá. Vì khi chưa từ bỏ chính mình, cái tôi của ta sẽ ‘xù ra’ phản ứng. Ta sẽ vác thập giá trong nhọc nhằn khổ sở, trong cay đắng học hằn, trong trách móc chua cay: “Lạy Chúa, tại sao chuyện ấy lại xảy ra cho con? Con đã làm gì mà phải chịu thế này?…”. …Và điều mà ta không nghĩ tới, đó là, khi ấy, không chỉ mình ta vác khổ giá mà cả những người xung quanh ta cũng đang phải vác lây, bởi suốt ngày họ phải nghe ta ta thán, than thân trách phận, hận trời oán đất. Bầu khí bình an bị ta làm cho ra ô uế nặng nề; và thế là, thập giá của ta thành ra người ta phải vác. Thật khổ thân họ!

Cho nên, thập giá sẽ không còn là khổ giá nữa nếu ta biết từ bỏ chính mình.

Tuy nhiên, khi ta từ bỏ chính mình, không có nghĩa là thập giá sẽ nhẹ nhàng hơn. Điều ấy chỉ có nghĩa là ta sẽ không còn cảm thấy bất bình chua chát, không còn những phản ứng tiêu cực khiến ta khổ sở. Ta sẽ bình an chấp nhận thập giá. Ta sẽ thôi không còn chất vấn Chúa: “Vì sao chuyện ấy lại xảy ra cho con?”, mà sẽ hiểu ra rằng “Sao chuyện ấy lại không thể xảy ra cho con, con có là gì đâu, lạy Chúa!”. Ta sẽ thôi không còn quay quắt với chính mình nữa, mà sẽ mở lòng ra cho Chúa hướng dẫn để Người dạy ta biết ý nghĩa nhiệm màu của thập giá – điều mà khi còn quay quắt với chính mình, ta không tài nào hiểu nổi. Ta sẽ hiểu được ý nghĩa của nhưng nỗi đau, hiểu được giá trị của sự từ bỏ. Ta sẽ nhìn những mất mát đau thương ở đời bằng một ánh mắt khác, bằng đôi mắt của Thiên Chúa. Ta sẽ như anh trộm lành thân thưa với Chúa: “Lạy Chúa, con chịu như vậy là thích đáng, xứng với việc con làm.” Và trong cái nghèo nàn đến tột cùng của ta đó, lòng thương xót Chúa sẽ chảy tràn chan chứa trong ta niềm vui ơn cứu độ, “Ta bảo thật anh, ngay hôm nay anh sẽ ở trên Thiên Đàng với ta” (Lc 23,43)

Bạn thân mến, nếu một lúc nào đó bạn cảm thấy thập giá đời mình quá nặng nề, hãy nhớ rằng ta không vác thập giá một mình. Ta chỉ là người vác theo Chúa mà thôi. Có nhiều khi ta vác thập giá trong đời mà không theo Chúa, nên ta không cảm nhận được Chúa an ủi đỡ nâng. Bạn biết không, trên đồi Canve có đến ba cây gỗ thập, nhưng chỉ có một cây duy nhất là Thánh Giá, vì trên cây gỗ ấy, có Chúa Giêsu; còn hai cây kia, một cây là khổ giá, và một cây là thập giá. Phần bạn, bạn đang vác loại cây gỗ nào: khổ giá, thập giá hay thánh giá? Đừng quên Chúa Giêsu bạn ạ, có Người, thập giá sẽ trở thành Thánh Giá.

Dom Vũ Chí Kiên, SJ


Thứ Hai, 3 tháng 11, 2025

ĐỨC MẸ LY TRẦN Ở ĐÂU?



Ngôi nhà của Đức Mẹ Maria ở gần thành phố cổ Êphêsô, phía tây nam Thổ Nhĩ Kỳ.


Chúng ta mừng lễ Đức Mẹ hồn xác lên trời; nhiều lần các Đức Thánh Cha đã viếng thăm ngôi nhà của Đức Mẹ ở Êphêsô bên nước Thổ-nhĩ-kỳ. Có phải đây là nơi mà Đức Mẹ lìa đời không? 

Lịch Phụng vụ đặt tên cho lễ mừng vào ngày 15/8 là lễ Đức Mẹ hồn xác lên trời. Nói đúng ra, tên của ngày lễ được lấy từ tín điều của Giáo hội công giáo, mà nếu dịch đúng ra phải nói “Đức Mẹ được cất về trời” (InAssumptione Beatae Mariae Virginis). Bên các giáo hội Đông phương, nơi xuất phát của lễ này, thì danh xưng là “Đức Mẹ an giấc” (Dormitio sanctae Mariae), hay là “ngủ yên”. Chung quanh ngày lễ này có rất nhiều câu hỏi được đặt ra mà tôi không thể nào trả lời trong vòng 10 phút được, mặc dù chỉ muốn giới hạn vào phạm vi lịch sử chứ không đi vào khía cạnh thần học. Những câu hỏi chính mang tính cách lịch sử có thể tóm lại như thế này: Đức Mẹ ly trần lúc nào, ở đâu? Dựa vào tài liệu nào mà biết được? Từ hồi nào phụng vụ mừng lễ Đức Mẹ an giấc?

Đức Mẹ ly trần lúc nào? Câu hỏi này dễ trả lời hơn cả phải không?

Không có câu hỏi nào dễ hết, bởi vì tất cả đều liên hệ với nhau, và móc nối với câu hỏi căn bản là: dựa vào tài liệu nào mà biết được những chi tiết về cuộc đời của Đức Mẹ Maria? Tài liệu lịch sử quan trọng nhất của đức tin Kitô giáo là Tân ước. Thế nhưng Tân ước chỉ cho thấy sự xuất hiện của Đức Maria trong cuộc đời của Chúa Giêsu, kể từ khi Truyền tin, Giáng sinh, cho đến lúc Chúa chết trên thập giá. Đức Maria còn được nhắc đến một lần nữa nơi sách Tông đồ công vụ (1,14), kể lại sự hiện diện của Người với các môn đệ ở Giêrusalem cầu nguyện trong thời gian chuẩn bị lãnh nhận Chúa Thánh Thần. Từ đó trở đi, không ai biết Người sống chết ra sao. Một cách tương tự như vậy, không ai biết được cuộc đời của Đức Maria trước lúc được Truyền tin như thế nào, thân thế ra sao.

Lịch phụng vụ cho chúng ta biết quý danh của song thân Đức Maria là thánh Gioakim và thánh Anna đấy chứ.

Đúng rồi, nhưng dựa vào chứng tích nào. Tân ước không có nói gì hết. Trước sự im lặng của Tân ước, các thế hệ Kitô hữu tiên khởi đã tìm cách lấp đầy các lỗ hổng về cuộc đời Đức Maria bằng những tài liệu mà ngày nay chúng ta gọi là “ngụy Phúc âm”. Thoạt nghe nói đến “ngụy thư”, có lẽ nhiều người nổi da gà. Thực ra ở đây, “ngụy” chỉ có nghĩa là không được Giáo hội nhìn nhận như là “được ơn linh hứng”, chứ không hẳn là sai lầm. Bằng cớ là quý danh song thân của Đức Maria, cũng như việc đức Maria dâng mình vào đền thờ đều dựa theo một ngụy thư mang tên là “Tiền Phúc âm thánh Giacôbê”. Các ngụy thư về đức Maria tựu trung vào những điểm sau đây: 1/ Gia thế và tuổi xuân của Đức Maria cho đến lúc đính hôn với thánh Giuse. 2/ Đức Maria trong thời niên thiếu của Đức Giêsu, nghĩa là lúc lánh nạn bên Ai-cập. 3/ Đức Maria vào lúc Tử nạn và Phục sinh của Chúa Giêsu. 4/ Đức Maria ly trần. Như đã nói trước đây, chúng ta chỉ dừng lại ở điểm chót này.

Tân ước không nói gì về thời gian và địa điểm Đức Maria lìa đời. Như vậy là tất cả đều dựa theo ngụy thư hay sao?

Đúng như vậy. Tuy nhiên, như vừa nói, ngụy thư không có nghĩa “sách lừa bịp”. Mặt khác, chúng ta đang chỉ nói đến khía cạnh lịch sử chứ không bàn đến khía cạnh tín lý. Vì thế các tài liệu gọi là “ngụy thư” có thể coi như chứng tích của các lưu truyền dân gian, và cần được đánh giá theo thể văn đó. Đi vào vấn đề cụ thể, nghĩa là về chuyện Đức Mẹ lìa đời (Transitus Virginis), chúng ta có hai nguồn truyền khẩu. Một nguồn cho rằng Đức Mẹ đã an giấc tại Giêrusalem vào khoảng một năm sau khi Chúa Giêsu lên trời; các thánh tông đồ đã tiễn đưa Người ra mộ trước khi chia tay nhau đi giảng đạo. Một nguồn khác cho rằng Đức Mẹ đã sống thêm một thời gian nữa với thánh Gioan, và đi theo vị tông đồ này sang Êphêsô; dĩ nhiên, theo lưu truyền này thì Đức Mẹ an giấc tại Êphêsô.

Lưu truyền nào đáng tin hơn?

Tôi không phải là nhà chuyên môn về sử học, cho nên chỉ kể lại những điều đọc thấy trong sách vở thôi. Xét về mặt lịch sử, lưu truyền về việc Đức Mẹ an giấc tại Giêrusalem xem ra đáng tin hơn, theo nghĩa là lễ phụng vụ kính Đức Mẹ an giấc bắt đầu từ đây, tại ngôi đền thờ được cất ở trên ngôi mộ của Người.

Như vậy Đức Mẹ an giấc hay là chết?

Trong tiếng Việt cũng như trong nhiều ngôn ngữ khác, người ta kiêng nói đến “chết, tử”, và thay bằng những từ ngữ như là “qua đời, an nghỉ, tạ thế, lìa đời, vv”. Có lẽ không phải chỉ vì muốn dùng từ ngữ thanh tao hơn, nhưng còn muốn nói rằng sau cuộc sống ở dương gian này, còn có cuộc sống khác nữa. Đối với đức tin Kitô giáo, chúng ta tin rằng sau cái chết, linh hồn bất tử vẫn tồn tại bên Chúa. Riêng với Đức Maria, thì không những là linh hồn mà cả thân xác cũng được ở bên Chúa; nhưng thử hỏi: Mẹ có phải trải qua cái chết trước khi được hồn xác được đưa lên trời hay không? Các nhà thần học không nhất trí. Chúng ta tạm gác qua chuyện thần học sang một bên, và trở về với các nguồn truyền khẩu. Dựa theo những ngụy thư mang tên là sự an giấc của Đức Maria, thì không lâu sau khi Chúa lên trời, một thiên sứ đến báo tin cho Mẹ biết rằng sắp đến ngày ra đi. Mẹ liền mời các thân nhân đến để ở gần bên cạnh vào lúc kết thúc cuộc đời. Các thánh tông đồ cũng được triệu tập đến. Một buổi canh thức và cầu nguyện đã diễn ra vào đêm cuối cùng, và sáng hôm sau, Chúa Giêsu đã đến đem linh hồn Mẹ về trời. Các thánh tông đồ chôn cất thân xác Mẹ trong một ngôi mộ mới cất. Ba ngày sau, Chúa Giêsu và các thiên sứ đến đưa thân xác Mẹ về thiên đàng và được kết hiệp với linh hồn. Đó là những đại cương, bởi vì xét về chi tiết thì có nhiều dị biệt giữa các phiên bản, thí dụ như về thời gian (1 năm, hay lâu hơn sau khi Chúa lên trời), về địa điểm (Bêlem hay là Giêrusalem?).

Lúc nãy cha nói rằng lưu truyền về Đức Mẹ an giấc ở Giêrusalem thì cổ xưa hơn lưu truyền về an giấc ở Êphêsô, cho nên đáng tin hơn phải không?

Tôi nói là lễ kính Đức Mẹ an giấc bắt nguồn từ Giêrusalem, chứ không phải từ Êphêsô. Tuy nhiên điều này không có nghĩa là các lưu truyền về Đức Mẹ an giấc đều có giá trị lịch sử. Lý do là vì xem ra các tài liệu này ra đời muộn, nghĩa là vào thế kỷ V. Thật vậy, vào khoảng năm 377 (nghĩa là cuối thế kỷ IV), đức cha Êpiphaniô giám mục Salamina (+403), đã từng sống lâu năm ở Giêrusalem đã viết rằng Kinh thánh không nói gì về việc Đức Mẹ kết thúc cuộc đời như thế nào, và vì thế đã có ít là ba giả thuyết: thứ nhất, Đức Mẹ được Chúa đưa lên trời; thứ hai, Đức Mẹ được tử đạo; thứ ba, Đức Mẹ chết như bao nhiêu sinh linh khác. Tác giả không biết nên theo ý kiến nào, tuy xác tín rằng cuộc đời của Đức Mẹ kết liễu cách khác thường (Panarion 78,11.24). Dù sao cũng nên biết là từ cuối thế kỷ VI (khoảng giữa các năm 540 và 570), có lễ kính Đức Mẹ an giấc được mừng vào ngày 15 tháng 8, và bành trướng sang Tây phương vào thế kỷ VII. Không thiếu sử gia đã nêu lên câu hỏi: phải chăng lễ phụng vụ bắt nguồn từ các ngụy thư, hay nguỵ thư bắt nguồn từ lễ phụng vụ? Tôi xin miễn đi sâu vào vấn đề này.

Còn lưu truyền về việc Đức Mẹ an giấc tại Êphêsô ra đời từ hồi nào?

Theo Phúc âm thứ bốn, Chúa Giêsu từ trên thập giá đã ký thác thánh Gioan cho Đức Mẹ và ký thác Đức Mẹ cho thánh Gioan, rồi từ đó, môn đệ Gioan đưa Mẹ về nhà mình (Ga 19,27), và Mẹ cũng theo Gioan trên đưỡng truyền giáo. Theo một lưu truyền, thánh Gioan đã hoạt động ở Êphêsô, vì thế Đức Mẹ cũng đi theo thánh Gioan và qua đời tại đây. Hồi tháng 11 năm ngoái, đức thánh cha Bênêđictô XVI (theo gương của hai vị tiền nhiệm Phaolô VI và Gioan Phaolô II), trong chuyến du hành sang Thổ nhĩ kỳ, có đến thăm ngôi nhà này, được người địa phương đặt lên là nhà của Mẹ Maria (Meryem Ana Evi). Các nhà khảo cổ cho rằng nền của ngôi nhà này mang vết tích của thế kỷ I của Công nguyên. Nhưng làm sao chứng căn nhà này là của đức Maria được, cũng như chị biết là tại Loreto ở bên nước Ý, cũng có một ngôi nhà tục truyền là của đức Maria ở Nazareth.

Lưu truyền Êphêsô có giá trị lịch sử đến mức nào?

Trên đây tôi đã nói rằng lưu truyền Giêrusalem ra đời trước, vào khoảng thế kỷ VI. Lưu truyền Êphêsô ra đời muộn hơn, và gặp thấy khá nhiều vấn nạn. Thứ nhất là cần kiểm chứng xem thánh Gioan có sang Êphêsô không. Thứ hai, cần kiểm chứng xem Đức Mẹ có đi theo thánh Gioan hay không. Tuy nhiên, dưới một mặt khác, chúng ta đừng nên quên rằng lòng tôn kính Đức Mẹ trong Hội thánh đã tăng trưởng kể từ sau công đồng họp tại Êphêsô năm 431. Biến cố này là nguồn gốc của các bài giảng và các lưu truyền về cuộc đời Đức Maria. Vì thế xét về giá trị lịch sử, thì khó nói được lưu truyền nào hơn lưu truyền nào, bởi vì chính công đồng Êphêsô là khởi điểm cho sự phát triển lòng tôn kính Đức Mẹ, kể cả lễ phụng vụ cử hành tại Giêrusalem. Như đã nói ngay từ đầu, tôi chỉ bàn đến khía cạnh lịch sử chứ không đi vào khía cạnh tín lý, bởi vì tín điều về Đức Maria hồn xác lên trời dựa trên các chứng cứ mặc khải và thần học, chứ không dựa trên các truyền kỳ dân gian.

Lm. Giuse Phan Tấn Thành, op.