Thứ Sáu, 7 tháng 11, 2025

HỌC YÊU THÁNH GIÁ

 


Thập giá là biểu tượng của ơn cứu độ. Nói đến thập giá, ta nghĩ đến con đường thiêng liêng để nên thánh. Ta nghĩ đến thập giá của Chúa Giêsu, nghĩ đến cuộc khổ nạn đau thương của Người. Ta ước ao trở nên đồng hình đồng dạng với Người trong đau khổ để được thông phần với Người trong vinh quang (Rm 6,8; Lt 95). Có những lúc sốt mến nồng nàn, có khi ta không ngần ngại xin Chúa cho ta thêm thập giá, để chứng tỏ rằng ta yêu mến và để được chia sẻ đau khổ với Người ta yêu dấu. Tuy nhiên, cũng phải thừa nhận rằng, ấy là lúc ta đang cầu nguyện, ấy là lúc ta đang ở bên Chúa, ấy là lúc ta đang tĩnh tâm, ấy là lúc ta đang sốt mến dạt dào; còn thực tế, khi chân ta chạm vào mặt đất, tay ta vật lộn với cuộc sống mưu sinh, sống giữa đời thường, có lẽ ta phải cúi mình đấm ngực mà rằng thực tế ta không hề muốn thập giá.

Nếu thập giá nhẹ nhàng, ngọt ngào và dễ chịu, hẳn là nhân loại này thay thảy đều nên thánh cả; nhưng thập giá không như vậy. Thập giá lúc nào cũng trái ngược với bản tính con người trong ta. Có những tương quan khiến ta ngộp thở, bực bội và khó chịu, nhưng để sống tinh thần Tin Mừng, ta phải bỏ mình đón nhận. Có những lời mời gọi đầy hấp dẫn đê mê, nhưng để giữ cho mình trong sạch, ta phải chiến đấu với bản tính yếu đuối của mình. Có những điều trái ý, những nghịch cảnh, mất mát đau thương xảy đến trong đời, nhưng để sống như một người có niềm tin, ta phải học cách an lòng đón nhận.

Thập giá có đó như một nỗi giằng co giữa ước muốn thánh thiện với bản tính con người thấp hèn trong ta. Bởi lẽ, nếu không có ao ước hướng thượng, hẳn là ta có thể đã hành xử theo kiểu tự nhiên, theo thói đời lẽ tục, chẳng cần kiềm lòng, chẳng cần giữ kẽ, ‘mắt đền mắt, răng đền răng’. Nhưng vì ước ao nên hoàn thiện, thập giá trở nên như một thách đố. Ước muốn nên thánh thôi thúc ta vác lấy thập giá, nhưng bản tính yếu đuối trong ta xui là lẩn tránh. Và thập giá trở thành một nỗi chênh chao. Một điều ta vừa từ khước lại vừa ước ao.

Đọc Tin Mừng ta thấy Chúa Giêsu mời gọi các môn đệ của mình, “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo” (Mt 16,24). Người môn đệ là người theo Chúa Giêsu, người mang danh Kitô hữu cũng phải là người theo Chúa Giêsu. Ta không thể nói mình theo Chúa mà lại khước từ thập giá, vì chính Chúa cũng vác thập giá mà. Tuy nhiên, trước khi vác thập giá, Chúa Giêsu thẳng thắn mời ta phải từ bỏ chính mình trước đã. Vì sao lại phải từ bỏ chính mình trước? Liệu ta có thể vác thập giá khi chưa từ bỏ chính mình được không?

Hẳn là ta có thể vác thập giá khi chưa từ bỏ chính mình, nhưng khi ấy, thập giá không còn là thập giá nữa, mà sẽ là khổ giá. Vì khi chưa từ bỏ chính mình, cái tôi của ta sẽ ‘xù ra’ phản ứng. Ta sẽ vác thập giá trong nhọc nhằn khổ sở, trong cay đắng học hằn, trong trách móc chua cay: “Lạy Chúa, tại sao chuyện ấy lại xảy ra cho con? Con đã làm gì mà phải chịu thế này?…”. …Và điều mà ta không nghĩ tới, đó là, khi ấy, không chỉ mình ta vác khổ giá mà cả những người xung quanh ta cũng đang phải vác lây, bởi suốt ngày họ phải nghe ta ta thán, than thân trách phận, hận trời oán đất. Bầu khí bình an bị ta làm cho ra ô uế nặng nề; và thế là, thập giá của ta thành ra người ta phải vác. Thật khổ thân họ!

Cho nên, thập giá sẽ không còn là khổ giá nữa nếu ta biết từ bỏ chính mình.

Tuy nhiên, khi ta từ bỏ chính mình, không có nghĩa là thập giá sẽ nhẹ nhàng hơn. Điều ấy chỉ có nghĩa là ta sẽ không còn cảm thấy bất bình chua chát, không còn những phản ứng tiêu cực khiến ta khổ sở. Ta sẽ bình an chấp nhận thập giá. Ta sẽ thôi không còn chất vấn Chúa: “Vì sao chuyện ấy lại xảy ra cho con?”, mà sẽ hiểu ra rằng “Sao chuyện ấy lại không thể xảy ra cho con, con có là gì đâu, lạy Chúa!”. Ta sẽ thôi không còn quay quắt với chính mình nữa, mà sẽ mở lòng ra cho Chúa hướng dẫn để Người dạy ta biết ý nghĩa nhiệm màu của thập giá – điều mà khi còn quay quắt với chính mình, ta không tài nào hiểu nổi. Ta sẽ hiểu được ý nghĩa của nhưng nỗi đau, hiểu được giá trị của sự từ bỏ. Ta sẽ nhìn những mất mát đau thương ở đời bằng một ánh mắt khác, bằng đôi mắt của Thiên Chúa. Ta sẽ như anh trộm lành thân thưa với Chúa: “Lạy Chúa, con chịu như vậy là thích đáng, xứng với việc con làm.” Và trong cái nghèo nàn đến tột cùng của ta đó, lòng thương xót Chúa sẽ chảy tràn chan chứa trong ta niềm vui ơn cứu độ, “Ta bảo thật anh, ngay hôm nay anh sẽ ở trên Thiên Đàng với ta” (Lc 23,43)

Bạn thân mến, nếu một lúc nào đó bạn cảm thấy thập giá đời mình quá nặng nề, hãy nhớ rằng ta không vác thập giá một mình. Ta chỉ là người vác theo Chúa mà thôi. Có nhiều khi ta vác thập giá trong đời mà không theo Chúa, nên ta không cảm nhận được Chúa an ủi đỡ nâng. Bạn biết không, trên đồi Canve có đến ba cây gỗ thập, nhưng chỉ có một cây duy nhất là Thánh Giá, vì trên cây gỗ ấy, có Chúa Giêsu; còn hai cây kia, một cây là khổ giá, và một cây là thập giá. Phần bạn, bạn đang vác loại cây gỗ nào: khổ giá, thập giá hay thánh giá? Đừng quên Chúa Giêsu bạn ạ, có Người, thập giá sẽ trở thành Thánh Giá.

Dom Vũ Chí Kiên, SJ


Thứ Hai, 3 tháng 11, 2025

ĐỨC MẸ LY TRẦN Ở ĐÂU?



Ngôi nhà của Đức Mẹ Maria ở gần thành phố cổ Êphêsô, phía tây nam Thổ Nhĩ Kỳ.


Chúng ta mừng lễ Đức Mẹ hồn xác lên trời; nhiều lần các Đức Thánh Cha đã viếng thăm ngôi nhà của Đức Mẹ ở Êphêsô bên nước Thổ-nhĩ-kỳ. Có phải đây là nơi mà Đức Mẹ lìa đời không? 

Lịch Phụng vụ đặt tên cho lễ mừng vào ngày 15/8 là lễ Đức Mẹ hồn xác lên trời. Nói đúng ra, tên của ngày lễ được lấy từ tín điều của Giáo hội công giáo, mà nếu dịch đúng ra phải nói “Đức Mẹ được cất về trời” (InAssumptione Beatae Mariae Virginis). Bên các giáo hội Đông phương, nơi xuất phát của lễ này, thì danh xưng là “Đức Mẹ an giấc” (Dormitio sanctae Mariae), hay là “ngủ yên”. Chung quanh ngày lễ này có rất nhiều câu hỏi được đặt ra mà tôi không thể nào trả lời trong vòng 10 phút được, mặc dù chỉ muốn giới hạn vào phạm vi lịch sử chứ không đi vào khía cạnh thần học. Những câu hỏi chính mang tính cách lịch sử có thể tóm lại như thế này: Đức Mẹ ly trần lúc nào, ở đâu? Dựa vào tài liệu nào mà biết được? Từ hồi nào phụng vụ mừng lễ Đức Mẹ an giấc?

Đức Mẹ ly trần lúc nào? Câu hỏi này dễ trả lời hơn cả phải không?

Không có câu hỏi nào dễ hết, bởi vì tất cả đều liên hệ với nhau, và móc nối với câu hỏi căn bản là: dựa vào tài liệu nào mà biết được những chi tiết về cuộc đời của Đức Mẹ Maria? Tài liệu lịch sử quan trọng nhất của đức tin Kitô giáo là Tân ước. Thế nhưng Tân ước chỉ cho thấy sự xuất hiện của Đức Maria trong cuộc đời của Chúa Giêsu, kể từ khi Truyền tin, Giáng sinh, cho đến lúc Chúa chết trên thập giá. Đức Maria còn được nhắc đến một lần nữa nơi sách Tông đồ công vụ (1,14), kể lại sự hiện diện của Người với các môn đệ ở Giêrusalem cầu nguyện trong thời gian chuẩn bị lãnh nhận Chúa Thánh Thần. Từ đó trở đi, không ai biết Người sống chết ra sao. Một cách tương tự như vậy, không ai biết được cuộc đời của Đức Maria trước lúc được Truyền tin như thế nào, thân thế ra sao.

Lịch phụng vụ cho chúng ta biết quý danh của song thân Đức Maria là thánh Gioakim và thánh Anna đấy chứ.

Đúng rồi, nhưng dựa vào chứng tích nào. Tân ước không có nói gì hết. Trước sự im lặng của Tân ước, các thế hệ Kitô hữu tiên khởi đã tìm cách lấp đầy các lỗ hổng về cuộc đời Đức Maria bằng những tài liệu mà ngày nay chúng ta gọi là “ngụy Phúc âm”. Thoạt nghe nói đến “ngụy thư”, có lẽ nhiều người nổi da gà. Thực ra ở đây, “ngụy” chỉ có nghĩa là không được Giáo hội nhìn nhận như là “được ơn linh hứng”, chứ không hẳn là sai lầm. Bằng cớ là quý danh song thân của Đức Maria, cũng như việc đức Maria dâng mình vào đền thờ đều dựa theo một ngụy thư mang tên là “Tiền Phúc âm thánh Giacôbê”. Các ngụy thư về đức Maria tựu trung vào những điểm sau đây: 1/ Gia thế và tuổi xuân của Đức Maria cho đến lúc đính hôn với thánh Giuse. 2/ Đức Maria trong thời niên thiếu của Đức Giêsu, nghĩa là lúc lánh nạn bên Ai-cập. 3/ Đức Maria vào lúc Tử nạn và Phục sinh của Chúa Giêsu. 4/ Đức Maria ly trần. Như đã nói trước đây, chúng ta chỉ dừng lại ở điểm chót này.

Tân ước không nói gì về thời gian và địa điểm Đức Maria lìa đời. Như vậy là tất cả đều dựa theo ngụy thư hay sao?

Đúng như vậy. Tuy nhiên, như vừa nói, ngụy thư không có nghĩa “sách lừa bịp”. Mặt khác, chúng ta đang chỉ nói đến khía cạnh lịch sử chứ không bàn đến khía cạnh tín lý. Vì thế các tài liệu gọi là “ngụy thư” có thể coi như chứng tích của các lưu truyền dân gian, và cần được đánh giá theo thể văn đó. Đi vào vấn đề cụ thể, nghĩa là về chuyện Đức Mẹ lìa đời (Transitus Virginis), chúng ta có hai nguồn truyền khẩu. Một nguồn cho rằng Đức Mẹ đã an giấc tại Giêrusalem vào khoảng một năm sau khi Chúa Giêsu lên trời; các thánh tông đồ đã tiễn đưa Người ra mộ trước khi chia tay nhau đi giảng đạo. Một nguồn khác cho rằng Đức Mẹ đã sống thêm một thời gian nữa với thánh Gioan, và đi theo vị tông đồ này sang Êphêsô; dĩ nhiên, theo lưu truyền này thì Đức Mẹ an giấc tại Êphêsô.

Lưu truyền nào đáng tin hơn?

Tôi không phải là nhà chuyên môn về sử học, cho nên chỉ kể lại những điều đọc thấy trong sách vở thôi. Xét về mặt lịch sử, lưu truyền về việc Đức Mẹ an giấc tại Giêrusalem xem ra đáng tin hơn, theo nghĩa là lễ phụng vụ kính Đức Mẹ an giấc bắt đầu từ đây, tại ngôi đền thờ được cất ở trên ngôi mộ của Người.

Như vậy Đức Mẹ an giấc hay là chết?

Trong tiếng Việt cũng như trong nhiều ngôn ngữ khác, người ta kiêng nói đến “chết, tử”, và thay bằng những từ ngữ như là “qua đời, an nghỉ, tạ thế, lìa đời, vv”. Có lẽ không phải chỉ vì muốn dùng từ ngữ thanh tao hơn, nhưng còn muốn nói rằng sau cuộc sống ở dương gian này, còn có cuộc sống khác nữa. Đối với đức tin Kitô giáo, chúng ta tin rằng sau cái chết, linh hồn bất tử vẫn tồn tại bên Chúa. Riêng với Đức Maria, thì không những là linh hồn mà cả thân xác cũng được ở bên Chúa; nhưng thử hỏi: Mẹ có phải trải qua cái chết trước khi được hồn xác được đưa lên trời hay không? Các nhà thần học không nhất trí. Chúng ta tạm gác qua chuyện thần học sang một bên, và trở về với các nguồn truyền khẩu. Dựa theo những ngụy thư mang tên là sự an giấc của Đức Maria, thì không lâu sau khi Chúa lên trời, một thiên sứ đến báo tin cho Mẹ biết rằng sắp đến ngày ra đi. Mẹ liền mời các thân nhân đến để ở gần bên cạnh vào lúc kết thúc cuộc đời. Các thánh tông đồ cũng được triệu tập đến. Một buổi canh thức và cầu nguyện đã diễn ra vào đêm cuối cùng, và sáng hôm sau, Chúa Giêsu đã đến đem linh hồn Mẹ về trời. Các thánh tông đồ chôn cất thân xác Mẹ trong một ngôi mộ mới cất. Ba ngày sau, Chúa Giêsu và các thiên sứ đến đưa thân xác Mẹ về thiên đàng và được kết hiệp với linh hồn. Đó là những đại cương, bởi vì xét về chi tiết thì có nhiều dị biệt giữa các phiên bản, thí dụ như về thời gian (1 năm, hay lâu hơn sau khi Chúa lên trời), về địa điểm (Bêlem hay là Giêrusalem?).

Lúc nãy cha nói rằng lưu truyền về Đức Mẹ an giấc ở Giêrusalem thì cổ xưa hơn lưu truyền về an giấc ở Êphêsô, cho nên đáng tin hơn phải không?

Tôi nói là lễ kính Đức Mẹ an giấc bắt nguồn từ Giêrusalem, chứ không phải từ Êphêsô. Tuy nhiên điều này không có nghĩa là các lưu truyền về Đức Mẹ an giấc đều có giá trị lịch sử. Lý do là vì xem ra các tài liệu này ra đời muộn, nghĩa là vào thế kỷ V. Thật vậy, vào khoảng năm 377 (nghĩa là cuối thế kỷ IV), đức cha Êpiphaniô giám mục Salamina (+403), đã từng sống lâu năm ở Giêrusalem đã viết rằng Kinh thánh không nói gì về việc Đức Mẹ kết thúc cuộc đời như thế nào, và vì thế đã có ít là ba giả thuyết: thứ nhất, Đức Mẹ được Chúa đưa lên trời; thứ hai, Đức Mẹ được tử đạo; thứ ba, Đức Mẹ chết như bao nhiêu sinh linh khác. Tác giả không biết nên theo ý kiến nào, tuy xác tín rằng cuộc đời của Đức Mẹ kết liễu cách khác thường (Panarion 78,11.24). Dù sao cũng nên biết là từ cuối thế kỷ VI (khoảng giữa các năm 540 và 570), có lễ kính Đức Mẹ an giấc được mừng vào ngày 15 tháng 8, và bành trướng sang Tây phương vào thế kỷ VII. Không thiếu sử gia đã nêu lên câu hỏi: phải chăng lễ phụng vụ bắt nguồn từ các ngụy thư, hay nguỵ thư bắt nguồn từ lễ phụng vụ? Tôi xin miễn đi sâu vào vấn đề này.

Còn lưu truyền về việc Đức Mẹ an giấc tại Êphêsô ra đời từ hồi nào?

Theo Phúc âm thứ bốn, Chúa Giêsu từ trên thập giá đã ký thác thánh Gioan cho Đức Mẹ và ký thác Đức Mẹ cho thánh Gioan, rồi từ đó, môn đệ Gioan đưa Mẹ về nhà mình (Ga 19,27), và Mẹ cũng theo Gioan trên đưỡng truyền giáo. Theo một lưu truyền, thánh Gioan đã hoạt động ở Êphêsô, vì thế Đức Mẹ cũng đi theo thánh Gioan và qua đời tại đây. Hồi tháng 11 năm ngoái, đức thánh cha Bênêđictô XVI (theo gương của hai vị tiền nhiệm Phaolô VI và Gioan Phaolô II), trong chuyến du hành sang Thổ nhĩ kỳ, có đến thăm ngôi nhà này, được người địa phương đặt lên là nhà của Mẹ Maria (Meryem Ana Evi). Các nhà khảo cổ cho rằng nền của ngôi nhà này mang vết tích của thế kỷ I của Công nguyên. Nhưng làm sao chứng căn nhà này là của đức Maria được, cũng như chị biết là tại Loreto ở bên nước Ý, cũng có một ngôi nhà tục truyền là của đức Maria ở Nazareth.

Lưu truyền Êphêsô có giá trị lịch sử đến mức nào?

Trên đây tôi đã nói rằng lưu truyền Giêrusalem ra đời trước, vào khoảng thế kỷ VI. Lưu truyền Êphêsô ra đời muộn hơn, và gặp thấy khá nhiều vấn nạn. Thứ nhất là cần kiểm chứng xem thánh Gioan có sang Êphêsô không. Thứ hai, cần kiểm chứng xem Đức Mẹ có đi theo thánh Gioan hay không. Tuy nhiên, dưới một mặt khác, chúng ta đừng nên quên rằng lòng tôn kính Đức Mẹ trong Hội thánh đã tăng trưởng kể từ sau công đồng họp tại Êphêsô năm 431. Biến cố này là nguồn gốc của các bài giảng và các lưu truyền về cuộc đời Đức Maria. Vì thế xét về giá trị lịch sử, thì khó nói được lưu truyền nào hơn lưu truyền nào, bởi vì chính công đồng Êphêsô là khởi điểm cho sự phát triển lòng tôn kính Đức Mẹ, kể cả lễ phụng vụ cử hành tại Giêrusalem. Như đã nói ngay từ đầu, tôi chỉ bàn đến khía cạnh lịch sử chứ không đi vào khía cạnh tín lý, bởi vì tín điều về Đức Maria hồn xác lên trời dựa trên các chứng cứ mặc khải và thần học, chứ không dựa trên các truyền kỳ dân gian.

Lm. Giuse Phan Tấn Thành, op.


Thứ Tư, 10 tháng 9, 2025

Lịch sử truyền giáo Dòng Đa Minh tại VN

Tòa Thánh trao hẳn địa phận Đông Bắc Việt cho các cha Đaminh tỉnh dòng Mân Côi Phi-luật-tân 1757
Theo lời mời của Đức Cha Pallu và Lambert de La Motte, năm 1678 có 3 cha dòng Đaminh từ Phi luat tan đến truyền giáo tại địa phận đông Bắc Việt giữa lúc đang có cuộc bách hại đạo. Ban đầu các cha Juan Cruz, Morales và Arjona chán nản bỏ về thái lan, nhưng sau khi được Đức Cha Laneau hứa giải quyết mọi đòi hỏi nên 3 cha trở lại Bắc Việt 2-9-1679. Cuộc bắt đạo tiếp tục với mức đọ gắt gao hơn, 2 cha Arjona và Morales đang tìm đường về thái lan thì bị bắt và bị trục xuất 1-12-1680, chỉ có mình cha Cruz nhất định ở lại truyền giáo. Cha Cruz lần lượt làm cha chính năm 1707 và gm đại diện tông tòa năm 1716.
Ban đầu các cha đaminh được chỉ định truyền giáo ỏ 5 huyện tại Nam Định. Vì cuộc bắt đạo các cha phải trốn trành ờ kẻ sặt thuộc xứ đông hay vào thanh hóa. Sớ thừa sai đaminh cũng không nhiều lắm, nhóm đầu tiên 3 người thì 2 người rút lui, nhóm thừ hai tời nam 1693 thì 1 cha chết sớm, 1 cha về lại Manila. Nhóm thứ 3 gồm 2 cha đến năm 1696 thì 1 cha bị trục xuất vì thế vào đầu thế kỉ 18 chỉ có cha Cruz vá Pedro santa Teresa người tây ban nha và cha Lezzoli, người Y do bộ truyền giáo phái đền năm 1680 và sau khi Đức Cha Deydier chết được tòa thánh bổ nhiệm làm gm đại diện tông tòa địa phận đông Bắc Việt nâm 1698. Bộ truyền giáo tiếp tục sai thừa sai đến Bắc Việt, năm 1701 có thêm cha Sestri dòng đaminh người Y, cha Giovanni dòng augutinh nguoi y và 2 cha dòng phanxico. Đưc Cha Bourges coi địa phận Tây Bắc Việt nhất định không nhận thêm thừa sai dòng. Số thừa sai ngoại quốc tới đông khiến các cha VN hoặc phải coi những họ đạo trên miền bắc hoạc trả sang địa phận Tây Bắc Việt.
Từ năm 1717 cha Juan Cruz được chỉ định làm gm, đã dành 1 số họ đạo lớn cho dòng của mình khiến các cha augutinh kiện với bộ truyền giáo. Năm 1721 dc Cruz qua đời và Đức Cha Sestri dòng đaminh người y do bộ TG sai đến cũng muốn dành xứ đạo lớn để đưa thêm các cha đaminh người y sang. Lúc này tòa thánh sai cha Soffietti dòng phanxico đến truyền giáo và làm thanh tra để giải quyết các tranh chấp bằng việc ký những hợp đồng. Năm 1738 dc Ilario dòng augutinh người ý cai quản địa phận đông Bắc Việt và dành nhiều ưu tiên cho dòng augutinh khiến các cha đaminh bất mãn.
Về hoặt động truyền giáo của các cha đaminh trong nửa đầu thế kỉ 18 đáng kể nhất là việc triều đình TBN năm 1738 cấp 6 học bổng cho người VN sang học ở Manila, tất cả đã nhập dòng đaminh, ttrong số này có cha thánh Vinh Sơn Liêm, tử đạo năm 1773 và hiện nay được đại học thánh toma ở manila dựng tượng tôn kính. Một diểm khác đáng lưu ý la từ nâm 1738 các cha đaminh cũng bắt đầu thâu nhận người Việt vào dòng. Lần lượt năm 1738 có 2 cha, 10 năm sau 1747 thêm 3 cha nữa. như thế dòng đaminh là dòng chậm nhất trong việc nhận người bản xứ vào dòng. Người VN trước hết làm lm là do các cha thừa sai pháp huấn luyện và phong chức năm 1668, rồi tới lượt các cha dòng tên khoảng nam 1692 và các cha dòng augutinh nam 1728. Giáo đoàn của các cha đaminh gặp khủng hỏang về nhân sự từ năm 1740 Trong 5 năm có 5 thừa sai qua đời, trong số này có 2 cha tử đạo năm 1745, đó là cha thánh Gil de federich có tên việt là Tế va cha Mateo liciniana có tên việt là Đậu. Thừa sai đaminh TBN duy nhất còn lại là cha Luis Espinosa đã tức tộc nhận thêm nhiều người việt vào dòng và khẳn cắp xin thêm thừa sai. Năm 1750 chử có mình cha Espinosa và 7 cha đaminh VN, giáo đoàn bị đe dọa. Nam sau 1751 được thêm 2 thừa sai tới là Hernandez và Martin.
Theo lời xin của triều đình TBN ngày 6-11-1745 Bộ truyền giáo đề nghị lên ĐTC xin chuyển các cha dòng augutinh hiện chỉ có 4 người y sang giảng đạo bên Trung Hoa và nhường kẻ sặt và tất cả xứ đông cho các cha dòng daminh nhu toà thánh dả trao hẳn diạ phận tay cho các cha thừa sai Pháp. trong số cac thừa sai daminh xin chỉ cha Pedro Ponsgrau, be tren daminh dã ở Bắc Việt từ năm 1732, làm gm phụ tá cho Đức Cha Ilario, va sẽ kế vị khi ngài qua đời. Nhà dòng và triều đình TBN xin chịu mọi chi phí cho các thừa sai và gm. Cũng trong thời gian này Đức Cha Ilario viết nhiều thư yêu cằu bộ truyền giáo chỉ định cha Lorenzo dòng augutinh làm gm phụ tá. Cả 2 lời xin đều không được thi hành. Cha Ponsgrau chết năm 1747, số thừa sai daminh giãm sút thê thảm chỉ còn lại cha Espinosa. Vì thế toà thánh giữ nguyên tình trạng.
Đến năm 1753 dc Ilario và dc Nêz họp công đồng chung để giải quyết các tranh chấp về các giáo đoàn. Lúc này dòng Đaminh chỉ có 3 thừa sai nên rất bất lợi và đã không tham dự công nghị, đồng thời sau khi công nghị kết thức đã cử cha Hernandez về Roma vận động. Dòng Augutinh cũng cử cha Lorenzo về roma. Sau cùng trong phiên họp ngày 15-5-1757 bộ truyền giáo quyết dịnh duy trì các cha dòng augutinh coi sóc Kẻ Sặt và dòng daminh coi Lục Thủy, các nhà dòng nư thuộc quyền cha xứ. Nhưng các vị hồng y lại xin DTC đặt cha Hernandez làm gm đại diện tông tòa địa phận đông và giao hoàn toàn địa phận đông cho các cha Daminh. Với sự kiện mới này,ngày 1-8-1757 bộ truyền giáo đặt cha Espinosa làm cha chính và đồng thời gọi các cha dòng augutinh người Italia về còn các cha dòng augutinh vn hoặc ra triều hoặc theo các cha sang nhá dòng ở âu châu.
Vì phương tiện liên lạc khó khăn và lâu dài, những quyết định của bộ truyền giáo chưa tới Bắc Việt thì xảy ra một cuộc xung đột lớn. Đức Cha Ialrio qua đời nam 1754 và cha adriano dòng augutinh làm cha chính. Cac cha đaminh áp dụng luặt dòng tự động xin cha Paulus Campos dòng tên làm quan toà để bảo vệ quyền lợi. Trong khi đó theo lệnh trước đây của bộ thì gm địa phận kế cận tạm giám quản cho tới khi có gm mới, cha Campos ra va tuyệt thông cho cha cha chính adriano ngày 22-11-1758. Đức Cha Nêz viết thư cho cha Campos nói là cha không được làm như vậy. Tức thời cha Campos ra vạ tuyệt thông cho cả Đức Cha Nêz nữa .
Tình trạng trở nên rối loạn khiến tòa thánh phải cấp tốc cử Đức Cha Boucher, dòng phanxico gm Shensi bên trung quốc làm kinh lược tông tòa sang giải quyết. Đức Cha Boucher đã giải các vạ, tuyên bố tất cả các bí tích làm trong thồi kỳ rối loạn này đều thành sư và đề nghị triệu hồi cha Espinosa, lobresols về âu châu. Đức Cha kinh lược tòa thánh cũng xin xét lại quyết định triệu hồi các cha dòng augutinh vì giáo dân không phục các cha đaminh. Một lần nữa ngày 22-12-1764 Bộ truyền giáo quyết định giữ nguyện lệnh năm 1757, trao toàn điạ phận đông cho dòng daminh và triệu hồi các cha dòng augutinh, đồng thời ra lệnh cho cha Adriano phải rồi Bắc Việt. Từ đây về sau các các gm coi địa phận đông đều thuộc dòng Đaminh.